Mô hình quan hệ đối tác công - tư trong phát triển chính phủ điện tử (P2)

03/11/2015 20:53
Theo dõi ICTVietnam trên

Phải mất vài năm thị trường mới phát triển đến mức độ bền vững. Trong năm đầu tiên hoạt động, số người dùng đã tăng từ khoảng 2.000 đến 6.000 người sử dụng. Sau 5 năm, hệ thống hỗ trợ hơn 12.000 người sử dụng và hiện nay hệ thống Merx duy trì hơn 25.000 người sử dụng.

MỘT SỐ THÁCH THỨC THƯỜNG PHẢI ĐỐI MẶT TRONG CÁC DỰ ÁN CPĐT THEO MÔ HÌNH PPP

Trong quá trình thực hiện các dự án CPĐT theo mô hình PPP, các đối tác tham gia thường sẽ gặp phải một số trở ngại sau [2, 4, 5, 11]: Bản chất các dự án triển khai theo mô hình PPP là theo mô hình liên doanh, trong khi các cơ quan nhà nước thường quen với việc mua sắm truyền thống. Do đó, sẽ khó khăn cho các cơ quan nhà nước khi hình thành một nhóm đàm phán hợp đồng có thể làm việc với các luật sư, kế toán và nhà đàm phán giỏi có kinh nghiệm mà khu vực tư nhân huy động cho các dự án lớn. Điều này dẫn đến cần thiết phải có sự hỗ trợ của chuyên gia tư vấn để bảo vệ lợi ích của khu vực công.

-Để bảo vệ lợi ích quốc gia, chính phủ thường sở hữu các hệ thống đường trục hay tài sản nền tảng, như hệ thống cáp quang đường trục, nền tảng Internet cho CPĐT. Mặc dù trọng tâm của mô hình PPP là cung cấp dịch vụ chứ không quan tâm đến quyền sở hữu nhưng chính phủ có thể sở hữu hoặc khu vực tư nhân chuyển quyền sở hữu vào cuối giai đoạn nhượng quyền để bảo vệ lợi ích cho khu vực công.

-Quy định về thuế luôn là một vấn đề phức tạp trong các dự án PPP. Nhiệm vụ của chính phủ là phải bảo vệ người tiêu dùng nhưng điều này xung đột với nhu cầu kinh doanh của khu vực tư nhân, những người luôn luôn muốn có lợi nhuận cao. Chính vì thế, vai trò điều tiết chính trị và tài chính là đặc biệt quan trọng trong các dự án PPP. Nếu những quy định về thuế không được thực hiện bởi một bên độc lập khác thì những tranh chấp giữa các bên liên quan đến thuế và điều chỉnh thuế sẽ có thể xảy ra.

-Các khoản tài trợ là một mối quan tâm trong dự án PPP. Nhiệm vụ của Chính phủ là bảo vệ người tiêu dùng bằng cách bảo đảm tính sẵn sàng của "các dịch vụ cơ bản“ cho nhóm có thu nhập thấp và nhiệm vụ này xung đột với mục tiêu của dự án PPP về lợi nhuận.

-Một vấn đề nữa là thời gian đáp ứng trong các dự án PPP. Trong khi các nhà đầu tư tư nhân có thể đáp ứng nhanh chóng với những thay đổi thì chính phủ thường ít có khả năng đáp ứng kịp thời. Vì thế, mâu thuẫn thường phát sinh trong các dự án PPP do sự chậm trễ của chính phủ trong việc đưa ra điều chỉnh thuế hoặc cấp giấy phép.

DỰ ÁN CNTT THỰC HIỆN THEO MÔ HÌNH PPP ĐIỂN HÌNH

Hệ thống đấu thầu trực tuyến Merx của Chính phủ Canada được công nhận là một trong những hệ thống mở và minh bạch nhất thế giới [7].

Hệ thống đấu thầu trực tuyến của Chính phủ Canada được bắt đầu từ cuối thập niên 1980 khi Chính phủ cố gắng thực hiện cắt giảm ngân sách nên ngân sách tài trợ cho các sáng kiến mới rất hạn chế. Nghiên cứu ban đầu cho thấy, cần có 10 triệu đô la Canada để thiết lập và vận hành một dịch vụ đấu thầu trực tuyến. Chi phí phát sinh vượt quá chi phí quản lý quy trình mua sắm hiện tại. Để vượt qua khó khăn, Chính phủ Canada yêu cầu xây dựng một hệ thống đấu thầu trực tuyến như là một dự án tự tài trợ. Chính phủ thỏa thuận nhượng quyền với một nhà đầu tư khu vực tư nhân để xây dựng và vận hành dịch vụ đấu thầu trực tuyến mà vốn đầu tư có thể thu hồi từ phí của người sử dụng. Việc lựa chọn nhà cung cấp thành công dựa trên tiêu chí chi phí tốt nhất cho người dùng cá nhân.

Được xây dựng với kinh phí đầu tư của Chính phủ hầu như bằng không, hệ thống đã tiết kiệm chi phí cho Chính phủ Canada khoảng 6 triệu đô la Canada mỗi năm trong việc sao chép, fax, chuyển phát nhanh và thông báo hồ sơ dự thầu đến các nhà thầu.

Phải mất vài năm thị trường mới phát triển đến mức độ bền vững. Trong năm đầu tiên hoạt động, số người dùng đã tăng từ khoảng 2.000 đến 6.000 người sử dụng. Sau 5 năm, hệ thống hỗ trợ hơn 12.000 người sử dụng và hiện nay hệ thống Merx duy trì hơn 25.000 người sử dụng.

Một trong những lý do để hệ thống Merx thực hiện theo mô hình PPP thành công ở Canada là do công ty thắng thầu, Merx Cebra, một bộ phận của Ngân hàng Montreal, một trong năm ngân hàng lớn nhất ở Canada, đã phát triển một hệ thống tương tự, Merx Cebra có năng lực và kinh nghiệm cần thiết cũng như kiểm soát được dòng vốn, rủi ro và hoạt động kinh doanh nói chung.

(Hết kỳ I)

Tài liệu tham khảo

[1].AHMAD ZAMRIKHAIRUDDIN, PPP Guidelines: A Conceptual Framework, August 2010.
[2]. Asian Development Bank, Pubic - Private Partnership Handbook, September 2008.
[3]. Bangladesh Government, Strategic Prorites of Digital Bangladesh, 2011.
[4]. InforDev, Pubic-Private Partnerships in E-Govemment: Handbook, June 2009.
[5].Infrastructure Australia of Australia Government, Pubic Private Partnerships, (http://www.infrastructureaustralia.gov.au/ public_private/), .
[6]. JOHN MUSAJJAKAWA, E-Govt to Fight Corruption - UA, 2004.
[7].L. PRÉFONTAINE, L. RICARD, H. SICOTTE and D. SKANDER, Experimenting with ICT-intensive Pubic and Private Collaboration Projects: The Canadian Experience, Information Systems and Collaboration: State of the Art and Perspectives, Best Papers of the 11 th International Conference of the Association Information nd Management (AIM), Vol P-92, June 2006, p. 419-433.
[8].MANIAM KALIANNAN, HALIMAH AWANG, MURALI RAMAN, Publb-Private Partrerships for E-Govemment Services: Lessons from Malaysia, International Journal of Institutions and Economies, Vol. 2, No. 2, October 2010, p. 207-220.
[9].The Canadian Council for Public-Private Partnerships, About PPP, (http://www.pppcouncil.ca/resources/about-ppp.html), .
[10].The National Council for Public-Private Partnerships, PPP Basics, (http://www.ncppp.org/ppp-basics/), .
[11].The World Bank Institue, Public-Private Partnerships (http://wbi.worldbank.org/wbi/about/topics/public-private- partnerships), .

Trần Việt Cường

(TCTTTT Kỳ 2/2/2014)

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Mô hình quan hệ đối tác công - tư trong phát triển chính phủ điện tử (P2)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO