CĐS giáo dục đại học
Xây dựng mô hình giáo dục đại học số tại Việt Nam
Giáo dục đại học (GDĐH) số đang là một chủ đề được đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây. Đến nay dù chưa có một định nghĩa thống nhất về GDĐH số, nhưng hiểu GDĐH số theo cách nào, thì chuyển đổi số (CĐS), xây dựng mô hình GDĐH số vẫn là xu thế không thể đảo ngược, tất yếu diễn ra trong tương lai không xa ở nước ta.
Trong thời đại cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, người học có thể thu thập thông tin từ đa dạng các nguồn khác nhau, không chỉ từ nhà trường, thông tin bùng nổ dẫn đến nhà trường dạy không xuể; bên cạnh đó nghề nghiệp cũng thay đổi nhanh chóng (có công việc mất đi, có công việc mới sinh ra) đòi hỏi năng lực hành nghề phải liên túc thay đổi theo. Chính đặc điểm của thời đại CMCN 4.0 đòi hỏi giáo dục đào tạo (GDĐT), đặc biệt là GDĐH phải thay đổi căn bản, toàn diện để thích ứng với bối cảnh mới.
Các nội dung liên quan GDĐH số đã được thảo luận dưới nhiều góc nhìn khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về GDĐH số. Tuy nhiên, cho dù hiểu GDĐH số theo cách nào, thì CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số vẫn là xu thế không thể đảo ngược, tất yếu diễn ra trong tương lai không xa ở nước ta; nhiều nội dung chắc chắn phải được tính toán trong lộ trình CĐS của các cơ sở GDĐH. Mô hình GDĐH số phải được xem xét dưới góc độ tổng thể, trong mối liên hệ tương hỗ giữa các cơ sở đào tạo trong một quốc gia, hướng đến quốc tế thông qua môi trường số - đây sẽ là đặc điểm khác biệt cơ bản so với ứng dụng CNTT, tin học hóa trong GDĐH của giai đoạn trước đây.
Trọng tâm của GDĐH số là sự kết nối liên thông qua không gian số, chia sẻ dùng chung tài nguyên số, công nhận lẫn nhau (như công nhận tín chỉ) giữa các cơ sở GDĐH trong nước và quốc tế. Từ đó dẫn đến hàng loạt các hoạt động khác được mở rộng trên môi trường số gồm cả việc trao đổi sinh viên, giảng viên quốc tế, nghiên cứu viên, nhà khoa học.
Bài viết này bàn luận làm rõ khái niệm GDĐH số, vai trò sự cần thiết triển khai mô hình GDĐH số, thực trạng CĐS GDĐH ở nước ta thuận lợi, khó khăn; từ đó đề xuất một số nội dung CĐS GDĐH, xây dựng mô hình đại học (ĐH) số ở nước ta.
Tùy thuộc vào nhận thức, quan niệm, góc nhìn khác nhau có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “Giáo dục ĐH số” trong mối liên hệ với các thuật ngữ gần như ĐH 4.0, ĐH thông minh hay ĐH ảo (cyber university). Có quan điểm mô tả GDĐH số gắn với việc số hóa, áp dụng công nghệ số ở các mức độ khác nhau (chia làm 7 mức độ), mô hình ĐH số đơn giản nhất là số hóa, sử dụng phần mềm tự động hóa việc quản trị trong nhà trường, mô hình ĐH số cao nhất là cá nhân hóa học tập (thông qua dấu chân số - digital footprint) [2].
Cũng ý kiến thảo luận, để chuyển đổi sang mô hình GDĐH số hoàn chỉnh cần trải qua 5 mức độ, đồng thời liên tục phản hồi tới các chủ thể chính của trường như sinh viên, giáo viên, nhân viên, ứng viên, nghiên cứu viên, đối tác. Trong đó, ở mức 1 phải có sự tham gia của các đối tượng “tạo lập” nên nhà trường kể trên, còn mức 5 là ứng dụng công nghệ số ở mức cao vào toàn bộ môi trường ĐH, ví dụ công nghệ máy bay không người lái (drone) [1].
Hay có ý kiến mô tả GDĐH số được xây dựng trên nền tảng số, không trung gian hóa, không tập trung hóa và không vật chất hóa nghĩa là không giảng đường, không phòng thí nghiệm, không giảng viên cơ hữu, không học liệu bản cứng, không giáo trình giấy [4].
Có thể thấy GDĐH số là một khái niệm rộng, có nhiều quan niệm, định nghĩa và mô hình khác nhau. Quan điểm bài viết này cho rằng, mô hình GDĐH số cần phải được xem xét tổng thể từ cả góc độ một cơ sở GDĐH và từ góc độ tổng thể toàn ngành.
Ở góc độ quốc gia, tài nguyên, học liệu số của các cơ sở GDĐH phải được liên thông, chia sẻ, kết nối thông suốt với nhau và với cơ sở dữ liệu (CSDL) toàn ngành, hình thành các kho học liệu mở dùng chung, cùng xây dựng và cùng khai thác (OER), hình thành các nền tảng nền tảng cung cấp các khóa học trực tuyến đại chúng mở (VMOOC), tín chỉ các khóa học trực tuyến giữa các cơ sở giáo dục được công nhận lẫn nhau; CSDL GDĐH toàn ngành kết nối liên thông với các nền tảng quản trị của từng cơ sở GDĐH (ERP), mỗi trường, mỗi giáo viên, mỗi người học đều được định danh và lưu trữ hồ sơ điện tử phục vụ quản trị, quản lý nhà nước về GDĐT.
Ở góc độ một cơ sở GDĐH, hình thành nền tảng quản trị nhà trường tích hợp không gian làm việc số, kết nối với nền tảng dạy học trực tuyến, liên thông dữ liệu với CSDL toàn ngành, với kho học liệu mở OER và với nền tảng VMOOC, hình thành hệ sinh thái CĐS của nhà trường. Dù định nghĩa ĐH số theo cách nào thì CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số vẫn là xu thế tất yếu, nhiều nội dung chắc chắn phải được tính toán trong chiến lược phát triển, lộ trình CĐS của mỗi cơ sở GDĐH.
Đối tượng trung tâm của GDĐH là người học, chất lượng đào tạo gắn với sự tồn tại của cơ sở GDĐH. Thực tế hiện nay giới trẻ đang sử dụng công nghệ số mỗi ngày không chỉ để giải trí, học tập mà còn để phục vụ hầu hết các hoạt động trong cuộc sống, sẵn sàng trở thành công dân số trong một môi trường CĐS (gồm chính phủ số, kinh tế số, xã hội số). Vì vậy, các cơ sở đào tạo cần phải nhanh chóng CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số hướng đến “khách hàng mục tiêu”, thích nghi và “nói cùng ngôn ngữ” với họ mới có thể thu hút được sinh viên theo học.
Cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo ĐH ngày càng cao, CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số là điểm cộng để tăng sức cạnh tranh của mỗi trường ĐH, nâng cao thứ hạng của nhà trường trong các bảng xếp hạng ĐH uy tín cả trong nước và quốc tế [1].
Chính các lợi ích, hiệu quả mang lại cho thấy lý do, động lực cần đẩy nhanh CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, theo kịp xu hướng chung của thế giới. Nhờ công nghệ số mà thông tin nhanh chóng tiện lợi mọi lúc mọi nơi, tiết giảm thời gian, công sức, chi phí đáng kể so với hình thức trực tiếp (hình thức họp trực tuyến, email là những ví dụ cụ thể). Công nghệ số đã giải quyết được vấn đề lưu trữ, tìm kiếm, thống kê, báo cáo bằng hồ sơ giấy tờ rất vất vả của thế hệ trước; công nghệ dữ liệu lớn (big data), phân tích (analytics), trí tuệ nhân tạo (AI) còn giúp thu thập đầy đủ dữ liệu, phân tích, dự báo tương lai. Triển khai không gian làm việc số, không giảng đường, không giấy tờ, toàn bộ quy trình xử lý như giao việc, bút phê, ký số có thể được thực hiện từ xa thông qua nền tảng số, không phụ thuộc vào vị trí địa lý cho dù ở bất kì đâu.
Trong mô hình GDĐH số, dạy - học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học theo hướng sử dụng phòng thí nghiệm mô phỏng, học liệu số sinh động trực quan làm tăng hiệu quả truyền đạt kiến thức, học mọi lúc mọi nơi. Với sự hỗ trợ của công nghệ số, việc cá nhân hóa học tập được thực hiện ở mức độ rất cao, mỗi người học được học theo một học liệu, một phương thức, một thời gian biểu được thiết kế riêng, phù hợp nhất với điều kiện, khả năng riêng và không giống với bất kỳ ai khác. Sinh viên có thể lựa chọn theo học các giáo sư giỏi nhất, học 24/7 với sự hỗ trợ của trợ lý ảo nhờ công nghệ AI.
Thông qua công nghệ số việc nhận xét, đánh giá được mở rộng, không còn thầy đánh giá trò một chiều như trước mà trò nhận xét trò, trò nhận xét thầy trực tuyến qua mạng (trắc nghiệm thích ứng qua máy tính - computerized adaptive testing), đánh giá để hỗ trợ người học và đánh giá như là một hoạt động dạy-học, nâng cao hiệu quả của hướng dẫn học (chuyển từ đánh giá sự tiếp thu kiến thức, kỹ năng sang đánh giá năng lực nhận thức và tư duy).
Có thể nói, GDĐH số giúp người học tiếp cận thông tin nhiều hơn, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian, hỗ trợ đắc lực người học phát triển nhanh hơn về nhận thức, kiến thức và tư duy sáng tạo. Công nghệ số hỗ trợ giảm thuyết giảng sang phát triển năng lực người học; học ở mọi nơi, mọi lúc một cách thuận tiện tạo ra xã hội học tập. Việc truyền thụ kiến thức dần dần sẽ do công nghệ, các trợ lý ảo dần đảm nhận, người thầy tập trung giúp cho người học về phương pháp, tổ chức học tập gắn với thực tiễn, thúc đẩy sự phát triển tài năng. Nguồn lực xây trường, trả lương thường xuyên cho giảng viên cơ hữu và đội ngũ phục vụ được tập trung cho chương trình đào tạo, thu hút thầy giỏi, nhờ đó mà chất lượng đào tạo được nâng cao. Mô hình GDĐH số cần phải được xây dựng trước tiên, làm cơ sở xây dựng các bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá mức độ CĐS GDĐH và xây dựng nền tảng GDĐH số với các yêu cầu chức năng, yêu cầu kỹ thuật cụ thể.
Thế giới ngày càng “phẳng”, áp lực hội nhập quốc tế ngày càng tăng, CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số để hội nhập theo xu hướng chung toàn cầu. Mô hình GDĐH số gắn với chia sẻ học liệu số giữa các cơ sở GDĐH trong nước với nhau và với quốc tế, giúp cập nhật nhanh chóng kiến thức mới của nhân loại, hình thành kho học liệu mở dùng chung (OER); mở cơ hội tham gia học trực tuyến thông qua các khóa học trực tuyến đại chúng mở (MOOCs) chia sẻ toàn cầu (như Coursera hay eDx) - một cuộc cách mạng trong GDĐH thay đổi căn bản cách đào tạo truyền thống. Mô hình GDĐH số mở ra cơ hội hợp tác đào tạo qua mạng, công nhận tín chỉ đào tạo giữa các trường ĐH, tham gia các hội thảo khoa học quốc tế trực tuyến, hội nhập vào thế giới GDĐH số hóa toàn cầu.
Ứng dụng công nghệ số hướng tới xây dựng mô hình GDĐH số còn nhằm triển khai định hướng, chủ trương của Thủ tướng Chính phủ giao trong các Chương trình, Đề án CĐS thời gian qua1. Quyết định số 131/QĐ-TTg xác định mục tiêu đến năm 2030, GDĐH số trở thành một trụ cột của hệ thống GDĐH, chiếm tỉ trọng 30% quy mô, tất cả 100% cơ sở GDĐH cung cấp chương trình đào tạo (cấp bằng) bằng hình thức từ xa, trực tuyến, triển khai thí điểm mô hình GDĐH số tại một số cơ sở GDĐH ngay trong năm 2022. Quyết định số 146/QĐ-TTg đặt mục tiêu đến năm 2025, hoàn thiện mô hình “GDĐH số” và thí điểm triển khai mô hình tại một số cơ sở GDĐH, khuyến khích các trường ĐH dân lập tham gia thí điểm triển khai mô hình; đến năm 2030, hoàn thiện và mở rộng triển khai mô hình “GDĐH số” tới tối thiểu 50% các trường ĐH công lập trong toàn quốc; xây dựng, ban hành Bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá CĐS cơ sở GDĐH.
Bên cạnh các ưu điểm của CĐS, hướng đến xây dựng mô hình GDĐH số không thể không nói đến các điểm hạn chế, chủ yếu ở nguy cơ mất an toàn an ninh thông tin mạng. Tin tặc có thể tấn công phá hoại dữ liệu, phá lớp học trực tuyến, chiếm quyền quản trị, sửa sổ điểm điện tử, thay đổi học liệu số. Mặc dù vậy, vẫn phải khẳng định CĐS GDĐH, xây dựng mô hình GDĐH số là xu thế tất yếu, cần khẩn trương triển khai nhằm đổi mới căn bản GDĐH và hội nhập quốc tế.
Theo một kết quả khảo sát nhanh trong các trường ĐH toàn quốc gần đây cho thấy hạ tầng CNTT các trường hiện cơ bản khá tốt. Trong đó, 100% các trường có phòng máy, có mạng LAN, WiFi, cổng thông tin điện tử; 90% các trường thành lập Ban biên tập cổng, ban hành quy chế về an toàn thông tin (ATTT); trên 90% các trường sử dụng phần mềm quản lý đào tạo, phần mềm quản lý văn bản, trên 60% sử dụng phần mềm quản lý nhân sự và quản lý tài sản, thiết bị. Trong dạy, học, nghiên cứu khoa học, trên 50 trường có hệ thống quản lý học tập LMS; có khoảng 110 trường (chiếm khoảng 50% tổng số các trường) triển khai đào tạo chính quy trực tuyến ở các mức độ khác nhau; khoảng 60% các trường triển khai học liệu số và hệ thống thi trắc nghiệm; trên 70% cơ sở GDĐH đã triển khai hệ thống thư viện điện tử và áp dụng phương thức học tập kết hợp (blended learning) trong đào tạo; đã hình thành hệ thống các khóa học trực tuyến đại chúng mở (VMOOC). Kết quả khảo sát sơ bộ trên cho thấy đã có chuyển biến tốt hơn về nhận thức, số trường quan tâm và đẩy mạnh CĐS ngày càng tăng, cách thức thực hiện ngày càng bài bản, hệ thống và do vậy đạt kết quả tốt hơn.
Theo Gartner, quá trình CĐS gồm 06 giai đoạn: (i) Chưa có ý tưởng; (ii) Có mong muốn; (iii) Thiết kế CĐS; (iv) Triển khai CĐS; (v) Mở rộng phạm vi CĐS; (vi) Gặt hái kết quả CĐS. Ở nước ta, dù chưa có khảo sát đầy đủ nhưng căn cứ vào các số liệu ứng dụng CNTT trong GDĐH thì ước tính khoảng 45% cơ sở GDĐH đang ở giữa giai đoạn 3 - 4; còn lại 5% đang ở giai đoạn 1-2 hoặc giai đoạn 3 [5]. Mặc dù đã có được một số kết quả nhất định trong thời gian qua, CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số còn gặp một số khó khăn, hạn chế sau:
Lãnh đạo một số cơ sở GDĐH chưa thực sự quan tâm, đánh giá đúng về vai trò, ý nghĩa, xu thế tất yếu của CĐS; chưa triển khai các hình thức tuyên truyền, nâng cao nhận thức về CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số đến toàn thể cán bộ, nhân viên, giáo viên, học viên; chưa gắn mục tiêu chuyển đổi nhận thức với nhiệm vụ phát triển của mỗi đơn vị trực thuộc và cả nhà trường dù bối cảnh CĐS đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
ii- Thiếu cơ chế, chính sách cả ở cấp quốc gia và cấp cơ sở đào tạo, đó là: Thiếu mô hình GDĐH số chung, đảm bảo có sự chuẩn hóa, chia sẻ dữ liệu, sử dụng chung dữ liệu quản lý của giữa các cơ sở GDĐH và với cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) về GDĐT (gồm định danh xác thực điện tử, mở dữ liệu, liên thông dữ liệu); đảm bảo chuẩn hóa học liệu số, chung tay xây dựng, thẩm định và cùng khai thác sử dụng kho học liệu số dùng chung, nền tảng các khóa học trực tuyến đại chúng mở cho GDĐH (MOOC) (gồm cả kiểm tra, đánh giá, công nhận tín chỉ giữa các cơ sở GDĐH); thiếu cơ chế cho phép thí điểm mô hình GDĐH số, cơ chế huy động nguồn lực xã hội hóa (nhân lực và tài lực) thực hiện. Cơ sở GDĐH chưa thực sự chú trọng công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin mạng, chưa có quy chế quản lý vận hành, khai thác các hệ thống công nghệ.
iii- Thiếu kiến trúc tổng thể mô hình GDĐH số giúp các cơ sở GDĐH có kế hoạch đầu tư nguồn lực đồng bộ, có lộ trình, tránh trùng lắp; tránh đầu tư tự phát, thiếu sự kết nối, chia sẻ dữ liệu, phải nhập liệu nhiều lần, lãng phí nguồn lực.
iv- Khó khăn, hạn chế liên quan đến nguồn lực: (i) Nguồn kinh phí đầu tư CĐS, xây dựng và triển khai mô hình GDĐH số lớn, chưa kể phần kinh phí duy trì, vận hành hệ thống thường xuyên; (ii) Đội ngũ nhân lực chuyên trách triển khai mô hình GDĐH số cần được xây dựng, kiện toàn đồng bộ cả về số lượng và chất lượng, bảo đảm đáp ứng yêu cầu mới trong bối cảnh công nghệ số thay đổi rất nhanh, vòng đời ngắn, ngày càng hiện đại hơn; (iii) Năng lực số, kỹ năng số của cán bộ, giảng viên, sinh viên còn hạn chế, chưa đồng đều giữa các cá nhân và giữa các đơn vị.
Về nguyên tắc chung, mô hình GDĐH số phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong đào tạo, nâng cao chất lượng và cơ hội tiếp cận GDĐH, nâng cao hiệu quả quản lý, quản trị, hình thành nền GDĐH mở trên nền tảng số, tăng sức “cạnh tranh” của cơ sở GDĐH. Từ các phân tích ở trên, bài viết đề xuất một số nội dung xây dựng, triển khai mô hình GDĐH số tại Việt Nam trên cơ sở phối hợp đồng bộ cả giác độ từ trên xuống (từ phía cơ quan QLNN) và giác độ từ dưới lên (từ phía các cơ sở GDĐH), cụ thể như sau:
Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách CĐS GDĐH và xây dựng mô hình GDĐH số:
(i) Xây dựng, ban hành mô hình GDĐH số (CĐS GDĐH), từ đó ban hành bộ chỉ số tiêu chí CĐS GDĐH và yêu cầu chức năng và kỹ thuật của nền tảng GDĐH số.
Mô hình GDĐH số phải được thiết kế tổng thể trên cơ sở cải cách mô hình quản trị cơ sở GDĐH (quản lý tuyển sinh, quản lý chương trình đào tạo, quản lý thông tin người học, quản lý thông tin đội ngũ, quản lý cơ sở vật chất, quản lý tài chính, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, quản trị văn phòng điện tử, quản lý các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khác; đồng thời cân bằng được giữa yêu cầu mới và cơ hội mới, giải quyết được lợi ích của tất cả các bên liên quan.
Mỗi mục tiêu của mô hình GDĐH số phải được tạo động lực làm việc theo những cơ chế mới, quy định mới. Sinh viên có được kiến thức và kỹ năng mới thông qua công nghệ số và qua trải nghiệm thực tế. Nhân viên cải thiện được đời sống thông qua việc tham gia các dự án mới, các khóa học cần thiết, học từ xa thông qua MOOC, tham gia các nhóm nghiên cứu trong thời gian ngắn nhất có thể, mọi lúc mọi nơi. Các quy trình, thủ tục hành chính văn phòng được chuyển sang dạng số tự động hóa. Giáo viên được tham gia hoạt động sáng tạo và nghiên cứu khoa học nhiều nhất có thể. Nhà quản trị có thể tạo ra các quỹ đầu tư phục vụ hiện đại hóa nhà trường và xây dựng các phòng thí nghiệm công nghệ cao. Các doanh nghiệp bên thứ 3 và cơ quan QLNN có thể tìm được nguồn nhân lực tốt nhất, chuyên nghiệp nhất phù hợp giải quyết vấn đề của thực tế [6].
Yêu cầu kỹ thuật nền tảng GDĐH số tập trung vào xây dựng chuẩn dữ liệu (gồm cả học liệu), chuẩn kết nối, liên thông dữ liệu, mở dữ liệu, chuẩn kho học liệu mở, chuẩn thư viện số liên thông và định danh, xác thực điện tử.
(ii) Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định về cơ chế cho phép thử nghiệm mô hình GDĐH số trước khi nhân rộng và quy định chính thức, tập trung thử nghiệm về tiêu chuẩn trường, lớp, người dạy, người học, cơ sở vật chất, chương trình giảng dạy, kiểm tra đánh giá, cơ cấu tổ chức nhân sự, kiểm định chất lượng và huy động nguồn lực xã hội hóa. Quy định về dạy - học trực tuyến, điều kiện tổ chức dạy - học trực tuyến (nội dung chương trình, học liệu, nhân sự, hạ tầng kỹ thuật, ATTT, tư tưởng tâm lý trên môi trường số, văn hóa số học đường); kiểm tra giám sát, đánh giá, kiểm định, đảm bảo chất lượng học trực tuyến; công nhận kết quả dạy, học, kiểm tra, đánh giá (thi, bảo vệ tốt nghiệp) trực tuyến, công nhận tín chỉ học trực tuyến giữa các cơ sở GDĐH; sử dụng sổ sách điện thay sổ sách giấy, thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ trực tuyến GDĐT.
Hai là, thay đổi nhận thức về vai trò, vị trí, xu thế tất yếu của CĐS GDĐH và xây dựng mô hình GDĐH số, bắt đầu từ người đứng đầu đến từng cán bộ, giảng viên và người học; gắn trách nhiệm của người đứng đầu mỗi bộ phận, phòng ban trong việc tổ chức truyền thông nội bộ, gắn mục tiêu chuyển đổi nhận thức với nhiệm vụ chuyên môn. Đồng thời, đưa vào chiến lược, quy hoạch phát triển của trường nội dung về CĐS, xây dựng mô hình GDĐH số, chính thức hóa thông qua các kế hoạch CĐS trung hạn năm và hàng năm được lãnh đạo nhà trường phê duyệt. Nội dung kế hoạch bao gồm mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, kinh phí, phân công tổ chức thực hiện.
Ba là, xây dựng giải pháp kỹ thuật tổng thể CĐS của nhà trường bao gồm các nhóm chủ yếu sau:
(i) Nhóm hạ tầng kỹ thuật số gồm: Hạ tầng mạng, đường truyền, trang thiết bị phần cứng, ATTT, các phòng học tương tác thông minh, các phòng Lab mô phỏng ứng dụng VR, AR, AI vào nghiên cứu, thực hành; ưu tiên sử dụng mô hình điện toán đám mây, thực hiện theo hướng thuê dịch vụ, hợp tác công tư.
(ii) Nhóm nền tảng và dữ liệu số, gồm: Nền tảng quản trị nhà trường tích hợp không gian làm việc số, triển khai các ứng dụng hồ sơ điện tử, liên lạc giữa nhà trường với gia đình, thanh toán không dùng tiền mặt; thư viện điện tử, kho học liệu số (mở) kết nối liên thông; nền tảng số dạy - học trực tuyến hỗ trợ cá thể hóa học tập và tăng trải nghiệm kết nối với nền tảng quản trị nhà trường và mạng IoT tạo hệ sinh thái CĐS trong trường. Ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT) trong số hóa, giám sát, quản lý và khai thác các nguồn lực, đối tượng và hoạt động giáo dục trong nhà trường, đảm bảo kết nối thời gian thực với hệ thống thông tin quản trị nhà trường;
(iii) Nhóm các dịch vụ trực tuyến: Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ AI trong cung cấp dịch vụ (như trợ lý ảo, trả lời tự động) phục vụ tuyển sinh, đăng kí học, đăng kí luận văn, chuyển lớp, nghỉ học, nộp học phí …
Việc xây dựng giải pháp tổng thể có thể do nhà trường tự thực hiện hoặc thuê tư vấn xây dựng để đảm bảo chất lượng. Trong giải pháp tổng thể, lưu ý một số nội dung sau:
- Triển khai hệ thống đăng nhập một lần (single sign on - SSO); dùng chung nền tảng hoặc có giải pháp kết nối liên thông (qua các danh mục dùng chung); lộ trình triển khai theo các mô-đun; đảm bảo hạ tầng thông suốt và ATTT.
- Hạ tầng số, ATTT triển khai kết hợp giữa tự đầu tư hoặc thuê dịch vụ (gồm máy chủ, đường truyền, trung tâm dữ liệu (data center), rà quyét bảo mật, sao lưu dữ liệu …), trong đó ưu tiên đầu tư các phòng Lab thông minh, phòng máy tính đa năng, cung cấp Internet không dây trong khuôn viên trường.
- Cải cách mô hình quản trị của trường (quản lý tuyển sinh, quản lý chương trình đào tạo, quản lý thông tin người học, quản lý thông tin đội ngũ, quản lý cơ sở vật chất, quản lý tài chính, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, quản trị văn phòng điện tử, quản lý các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khác), triển khai số hóa quy trình quản trị tích hợp trên nền tảng quản trị nhà trường, tạo ra môi trường làm việc và tương tác trực tuyến cho cán bộ quản lý, người dạy, người học. Trong đó có các mô-đun cơ bản quản lý chuyên môn (như quản lý đào tạo, quản lý đội ngũ, quản lý thư viện), mô đun quản lý hành chính - quản trị (như cổng thông tin điện tử, quản lý văn bản, quản lý ký túc xá), mô đun cung cấp dịch vụ trực tuyến (như tuyển sinh, đăng kí tín chỉ), các mô đun phục vụ dạy - học - nghiên cứu khoa học (như thư viện số, học liệu số, LMS, eLearning courses, câu hỏi thi trắc nghiệm).
- Tổ chức bồi dưỡng năng lực số, kỹ năng số, ATTT cơ bản cho cán bộ, giảng viên toàn trường để sử dụng hiệu quả các hệ thống số hóa đã được đầu tư, trong đó ưu tiên bồi dưỡng qua mạng kết hợp với trực tiếp.
Bốn là ưu tiên kiện toàn đội ngũ chuyên trách CĐS, giao trách nhiệm cho một đơn vị đầu mối và phân công một lãnh đạo nhà trưởng chịu trách nhiệm chỉ đạo nhiệm vụ CĐS; phân tách giữa nhiệm vụ tham mưu xây dựng quy hoạch, kế hoạch và nhiệm vụ thực hiện duy trì, vận hành các hệ thống, nền tảng; đồng thời thể chế hóa công tác CĐS, ban hành các quy chế quản lý vận hành, khai thác hệ thống thông tin, nền tảng quản trị, nền tảng dạy học trực tuyến, nền tảng cung cấp các khóa học trực tuyến đại chúng mở MOOC, quy chế đảm bảo an toàn, an ninh thông tin thực hiện đồng bộ trong toàn trường.