Tóm tắt

 Thị trường dữ liệu đã hình thành nền kinh tế dữ liệu, đóng vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế, kinh tế số (KTS) của mỗi quốc gia.

 Dữ liệu là yếu tố quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế.

 Kiến nghị một số giải pháp về dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế

Trong mọi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, việc quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đều cần phải có dữ liệu. Phạm vi dữ liệu phục vụ cho phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là những số liệu thống kê, mà quan trọng hơn, còn là các dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, dự báo, xây dựng các kế hoạch phát triển đất nước.

Hiện nay, chuyển đổi số (CĐS) đang dần được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và tác động sâu sắc tới hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế của các nước. Ở trọng tâm của quá trình CĐS, dữ liệu tiếp tục là đòn bẩy quan trọng, tạo động lực cho tăng trưởng và quản lý kinh tế của mỗi quốc gia.

Dữ liệu trong sự chuyển dịch từ nền kinh tế truyền thống sang kinh tế số

Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 và sự xuất hiện của Internet vạn vật (Internet of Things - IoT) đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong việc sử dụng dữ liệu vào các hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, quản lý và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Đặc biệt, với sự phổ biến của công nghệ số cùng các thiết bị thông minh, nguồn dữ liệu được tạo ra ngày càng lớn.

Nếu như năm 2020, báo cáo do Hãng nghiên cứu thị trường Statista dự báo quy mô doanh thu của thị trường dữ liệu lớn toàn cầu ước đạt 70 tỷ USD vào năm 2022 thì cũng theo số liệu thống kê báo cáo cập nhật của chính Statista được công bố tháng 1/2023 [1], con số này đã có sự thay đổi đột biến. Quy mô doanh thu của thị trường dữ liệu lớn toàn cầu đã vượt mức 271 tỷ USD vào cuối năm 2022 và ước đạt 308 tỷ USD trong năm 2023.

Đây là xu thế tăng trưởng tất yếu, dữ liệu cũng như thị trường dữ liệu, các dịch vụ dữ liệu sẽ còn có những bước tăng trưởng đột biến trong thời gian tới.

Quy mô doanh thu của thị trường dữ liệu lớn toàn cầu giai đoạn 2021 - 2029 (tỷ USD)

Sự tăng trưởng nhanh của thị trường và sự phát triển của các công nghệ mới nổi sẽ kéo theo thị trường dữ liệu lớn phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 14%/năm. Xu thế này cho chúng ta thấy dữ liệu không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi là một công cụ phục vụ cho quản lý, điều hành mà còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

Dữ liệu riêng lẻ có thể mang ít giá trị, nhưng khi được tổng hợp và phân tích với các dữ liệu liên quan khác, giá trị của nó có thể được nhân lên gấp nhiều lần, từ đó tạo ra sự cạnh tranh trong quá trình đổi mới sáng tạo và hình thành tri thức. Sự phát triển của thị trường dữ liệu lớn (big data) nói riêng và thị trường dữ liệu nói chung đã hình thành một loại hình kinh tế mới - kinh tế dữ liệu, đóng vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, song hành cùng sự phát triển của KTS.

Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức cao trong khu vực ASEAN. Năm 2023, Việt Nam tiếp tục là nước có tốc độ tăng trưởng KTS nhanh nhất khu vực Đông Nam Á 2 năm liên tiếp (2022 và 2023) và được dự báo sẽ tiếp tục giữ vị trí này trong năm 2025 (đứng trong top đầu, đồng hạng với Philippines).

Tổng giá trị hàng hóa (GMV) của Việt Nam dự kiến đạt tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) ở mức 20%, từ 30 tỷ USD vào năm 2023 lên gần 45 tỷ USD vào năm 2025. Tăng trưởng GMV trong hai năm tới sẽ được dẫn dắt bởi thương mại điện tử (TMĐT) và du lịch trực tuyến. TMĐT được kỳ vọng sẽ thúc đẩy nền KTS tại Việt Nam và toàn khu vực trong 10 năm tới. Trong khi tỷ lệ áp dụng thanh toán số tại khu vực Đông Nam Á đạt 50%, Việt Nam cũng đang thúc đẩy xu hướng này và trở thành quốc gia tăng trưởng nhanh nhất về thanh toán số, tăng 19% từ năm 2022 đến năm 2023 và sẽ tiếp tục phát triển ở mức 13% CAGR trong giai đoạn 2023 - 2025.

Thanh toán số tại Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ và kết quả triển khai đề án CĐS tại các địa phương, hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại và sự phổ biến của mã QR. Xu hướng này được dự báo sẽ tăng tốc khi Ngân hàng Nhà nước tiếp tục khuyến khích các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa.

Ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển KTS và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 411/QĐ-TTg đã thể hiện rõ quyết tâm, định hướng và nỗ lực hành động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển KTS.

Với quyết tâm chính trị, với một nền tảng thể chế và công nghệ vững vàng, Việt Nam có cơ sở, tự tin về khả năng chuyển đổi thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền KTS.

Dữ liệu là yếu tố quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế

Thứ nhất, khi tham gia CĐS, phát triển KTS, việc ra quyết định phải dựa trên dữ liệu. Xuất phát từ việc thống kê, phân tích dữ liệu tổng thể một cách khách quan, đầy đủ thông tin để áp dụng vào phân tích một tình huống và dự đoán tác động của các quá trình hành động khác nhau. Điều này không chỉ đúng đối với các cơ quan quản lý mà còn được áp dụng chung với sự phát triển kinh tế cộng đồng.

Những người ra quyết định ở cả khu vực công và tư đều dựa vào dữ liệu để đưa ra quyết định. Các DN tận dụng nguồn dữ liệu mở được cung cấp từ Chính phủ và các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương để quyết định nơi đầu tư nguồn lực của họ. Từ các dữ kiện dân số đơn giản cho đến các cuộc khảo sát phức tạp hơn về chi tiêu của hộ gia đình,... dữ liệu là cách tốt nhất để các công ty dự báo doanh thu và chi phí trong một số trường hợp. Những kết quả phân tích, dự báo này sẽ là cơ sở tham khảo quý báu để thúc đẩy tất cả các quyết định kinh doanh quan trọng của DN.

Trong CĐS, giá trị của dữ liệu không phải ở dữ liệu mà ở các quyết định được đưa ra và các hành động được thực hiện dựa trên dữ liệu.

Tương tự, các cơ quan chính phủ và các nhà quản lý cần sử dụng dữ liệu để hoạch định hoặc cung cấp thông tin về chính sách công. Chính phủ và UBND các cấp thường phân bổ nguồn lực theo số liệu thống kê về dân số hoặc kinh tế. Các quy định và văn bản pháp luật liên quan đến phát triển kinh tế được phân tích bằng cách sử dụng phân tích chi phí - lợi ích, cũng dựa trên dữ liệu. Ở mọi cấp độ, các quyết định phát triển kinh tế đều cần phải được cân nhắc, tham khảo và dựa trên cơ sở dữ liệu (CSDL) chứ không thể chỉ bằng kinh nghiệm quản lý.

Dữ liệu tốt và thông tin thống kê đầy đủ sẽ giúp các nhà quản lý ra quyết định, giúp các DN đầu tư vào một dự án cụ thể bằng cách làm sáng tỏ khả năng thành công của dự án. Thông tin minh bạch sẽ làm tăng hiệu quả quản lý, khai thác sử dụng và phát triển kinh tế.

Thứ hai, phát triển kinh tế đất nước cũng đồng nghĩa với việc phải xóa đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cũng như Chương trình ưu tiên đầu tư cho các địa bàn nghèo và khó khăn để giảm sự cách biệt giữa các vùng miền sẽ không thể biết được chiến lược có hiệu quả hay không nếu như không nắm được dữ liệu có bao nhiêu người nghèo tại mỗi địa phương. Hay nói cách khác, dữ liệu trong trường hợp này chính là công cụ để phát huy hiệu quả quản lý, phân bổ nguồn lực của nền kinh tế.

Thứ ba, dữ liệu cũng rất quan trọng để trả lời các câu hỏi lớn về quá trình phát triển kinh tế. Xác định chính xác đâu là các yếu tố đằng sau sự khác biệt về tỷ lệ tăng trưởng, phát triển kinh tế tại mỗi vùng miền, địa phương là những câu hỏi trọng tâm cần phải có lời giải. Tất cả đều phải dựa trên dữ liệu, bao gồm toàn bộ các yếu tố từ địa lý, lịch sử, chính sách cho đến văn hóa, chính trị. Các tranh luận xoay quanh vai trò và tầm quan trọng của hợp tác phát triển trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ đi vào bế tắc nếu như không có dữ liệu.

Thứ tư, những đổi mới chưa từng có trong kỹ thuật và công nghệ thu thập dữ liệu như thời điểm hiện tại, cùng sự tham gia hỗ trợ và việc phủ rộng khắp của các thiết bị thông minh, mạng 4G, 5G và Internet đã tạo ra khả năng phân phối dữ liệu rộng rãi và tự do. Một hệ sinh thái dày đặc của công nghệ viễn thám và hình ảnh vệ tinh, của dữ liệu sinh trắc học, dữ liệu GIS và bản đồ số, các dữ liệu dựa trên cơ sở vật chất, truyền thông xã hội, tìm nguồn cung ứng cộng đồng, và các kênh khác,... có khả năng tích hợp nhiều nguồn dữ liệu lớn khác nhau.

Việc phân tích dữ liệu lớn sẽ cho phép các nhà quản lý ra quyết định, điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế, theo dõi tiến độ phát triển trong thời gian thực, cải thiện bảo trợ xã hội và tìm ra câu trả lời về việc các chương trình hiện có cần phải điều chỉnh ở đâu. Dữ liệu mang lại một cơ hội to lớn để có được những thông tin đầy đủ nhất và phong phú hơn, có thể bổ sung cho các chỉ số phát triển kinh tế đã được thu thập.

Nhìn ra kinh nghiệm quốc tế, các nước OECD đang nỗ lực để mở rộng quyền truy cập vào “dữ liệu thông minh” - điều này bao gồm cả dữ liệu lớn cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng dữ liệu hành chính, thương mại và không gian địa lý. Ở cấp độ chung nhất, dữ liệu lớn có thể cung cấp các phản ánh trung thực về trạng thái của dân số, thực trạng nền kinh tế và phản hồi thời gian thực về hiệu quả của các hành động chính sách để nền kinh tế có khả năng phục hồi cao hơn và cho kết quả tăng trưởng tốt hơn.

Tựu trung lại, kinh tế dữ liệu sẽ là một thành tố quan trọng và cốt lõi cho nền kinh tế số của mỗi quốc gia. Vì vậy, trong tầm nhìn phát triển KTS cần phải có chính sách kiến tạo các tiền đề cho sự ra đời và hình thành ngành công nghiệp dữ liệu, tiến tới nền kinh tế dữ liệu, đảm bảo phát triển kinh tế dựa trên dữ liệu được triển khai mạnh mẽ với nhiều hình thức đa dạng, nhiều giải pháp đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp dựa trên dữ liệu. Dữ liệu được sử dụng để dự đoán, dự báo các hoạt động phát triển cho tương lai.

Kiến nghị một số giải pháp về dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế

Việt Nam đang trong quá trình CĐS số với 3 trụ cột Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình từ kinh tế truyền thống sang kinh tế số thì dữ liệu cho CĐS đóng vai trò then chốt để nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Căn cứ các mục tiêu cụ thể về nguồn nhân lực, nguồn vật lực và nguồn tài lực đã được đề ra trong Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/1/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; để chuẩn bị tốt dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế, bên cạnh việc gấp rút triển khai hướng dẫn, thực thi Luật Giao dịch điện tử ngày 22/6/2023, cần có các giải pháp đồng bộ, trong đó trước mắt cần tập trung vào những giải pháp cơ bản như:

1. Kiến tạo thể chế, chính sách về dữ liệu

 Hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ chế chính sách và quy định liên quan đến quản trị dữ liệu; chính sách thúc đẩy, khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng và tạo lập dữ liệu và đóng góp vào hạ tầng dữ liệu quốc gia; quản lý dữ liệu xuyên quốc gia; rà soát, bổ sung các quy định về bảo mật dữ liệu, an ninh mạng, giao dịch điện tử và pháp luật về TMĐT và thuế. Thông qua việc thiết lập môi trường thể chế minh bạch, rõ ràng, thuận lợi để thúc đẩy đầu tư vào Việt Nam, thúc đẩy các nguồn lực và bảo đảm sự phát triển kinh tế.

 Bên cạnh việc triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia, cần đồng thời rà soát, sửa đổi, ban hành mới quy định, chính sách về tài sản dữ liệu, mua, bán, chuyển nhượng dữ liệu, cung cấp dịch vụ dữ liệu,... để tạo thị trường dữ liệu phát triển lành mạnh, an toàn, tuân thủ pháp luật.

 Rà soát, sửa đổi quy định, chính sách về tài chính, phí, lệ phí để cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu cho DN, tạo nguồn thu hợp pháp để duy trì, phát triển dữ liệu và có cơ chế thu mua dữ liệu từ DN.

2. Khai thác, sử dụng và tận dụng dữ liệu để kiến tạo phát triển kinh tế

 Sử dụng dữ liệu để đơn giản hóa thủ tục hành chính.

 Khai thác dữ liệu để nâng cao năng lực, hiệu suất làm việc; cắt giảm các hoạt động thủ công, giấy tờ thay bằng các hệ thống thông tin, xử lý trên dữ liệu số.

 Thực hiện chỉ đạo điều hành trên dữ liệu, quyết định chỉ đạo phải có thuyết minh lấy dữ liệu làm cơ sở lựa chọn phương án.

 Tăng cường sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn trong hoạt động quản trị nhà nước, hỗ trợ ra quyết định.

 Cung cấp dữ liệu mở của cơ quan nhà nước (CQNN) cho người dân, DN; tạo cơ chế và khuyến khích DN chia sẻ dữ liệu cho CQNN và cho cộng đồng.

 Phát triển dữ liệu và phát triển nhân lực dữ liệu trong các lĩnh vực trọng điểm: nông nghiệp, y tế, giáo dục và đào tạo, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải, lao động, công nghiệp và thương mại, du lịch, văn hóa và xây dựng;

 Xây dựng và tổ chức triển khai Nền tảng tổng hợp, phân tích dữ liệu quốc gia và Nền tảng tổng hợp, phân tích dữ liệu tập trung cấp bộ, ngành, địa phương, kết nối liên thông, mở chia sẻ dữ liệu để tập hợp tài nguyên dữ liệu trong ngành, lĩnh vực, địa phương vào một đầu mối xử lý, phân tích, tạo ra các giá trị mới phục vụ phát triển KTS và xã hội số.

3. Thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu và các DN dữ liệu

 Thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế dữ liệu trong đó hình thành những doanh nghiệp chuyên về dữ liệu thuộc các nhóm, lĩnh vực: tư vấn chiến lược quản trị dữ liệu; cung cấp nội dung số; cung cấp nền tảng, dịch vụ quản trị dữ liệu.

 Ưu tiên thúc đẩy các ngành nghề mới về dữ liệu mới theo nhu cầu phát triển.

 Xây dựng dữ liệu vườn ươm DN, trong đó thu thập, cung cấp các dữ liệu cần thiết cho các DN khởi nghiệp, doanh nghiệp bắt đầu thực hiện kinh doanh nhằm tạo bệ đỡ cho các DN phát triển.

4. Hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm và đào tạo nguồn nhân lực

 Tăng cường hợp tác quốc tế về dữ liệu. Trước mắt là hợp tác với các nước ASEAN triển khai sáng kiến quản trị dữ liệu xuyên biên giới để thúc đẩy dòng chảy dữ liệu giữa các nước an toàn và phù hợp với quy định pháp luật của từng nước.

 Bên cạnh đó cũng cần chú trọng việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực số, phát triển nhân lực về dữ liệu, phát triển đội ngũ khoa học về dữ liệu trong các lĩnh vực.

[1] https://www.statista.com/statistics/1336002/big-data-analytics-market-size/