Kinh tế số là chìa khoá
giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình
Năm 2020 là năm Việt Nam khởi động thành công Chương trình chuyển đổi số (CĐS) quốc gia, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động CĐS trong cả nước. Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã và đang lập kế hoạch CĐS. Sự chuyển đổi thể hiện linh hoạt trong hoàn cảnh dịch COVID-19 như thay đổi hình thức làm việc từ trực tiếp tại cơ quan sang trực tuyến - họp trực tuyến, tư vấn y tế từ xa và học trực tuyến…
CĐS là sự chuyển đổi toàn diện trong doanh nghiệp (DN) và xã hội - lấy khách hàng hay người dân làm trung tâm, áp dụng công nghệ số mới vào các quy trình kinh doanh mới hay thay đổi quy trình cũ để tạo những sản phẩm hay dịch vụ mới, nâng cao trải nghiệm khách hàng hay người dân, nâng cao doanh thu, giảm chi phí vận hành.
Ví dụ, một DN bán lẻ muốn chuyển sang thương mại điện tử (TMĐT) - bán hàng trực tuyến thì phải thay đổi các quy trình làm việc như phải làm 24 giờ x 7 ngày, không thể bắt đầu từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Bởi vậy, cơ cấu tổ chức của DN phải thay đổi để thích hợp với quy trình bán hàng mới. Các hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) như bán hàng, quản lý kho lưu trữ, thanh toán trực tuyến, chăm sóc khách hàng… cần phải thay đổi để giảm bớt công việc chân tay và nhu cầu tự động cao hơn để phục vụ khách hàng tốt hơn. Cần nhấn mạnh ở đây là các hệ thống CNTT và các nền tảng hạ tầng số phải hiện đại và dễ thay đổi trước những yêu cầu thay đổi nhanh chóng của kinh doanh và khách hàng.
CĐS là cuộc cách mạng CNTT, là phương thức giúp chúng ta xây dựng chính quyền thông minh, phát triển nền KTS, xã hội số, y tế thông minh và giáo dục thông minh, nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo và sự vào cuộc quyết liệt đồng bộ của Chính phủ, các cấp, các ngành; gắn trách nhiệm người đứng đầu chính quyền các cấp; nhận thức đầy đủ bản chất, nội hàm của quá trình này; quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá trong quá trình chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính ở từng cơ quan đơn vị, địa phương.
Nền kinh tế của nước ta đang thoát khỏi nền kinh tế sơ khai sang nền kinh tế công nghiệp, đầu vào của sản xuất: lao động, đất đai, vốn, công nghệ, thiết bị, đầu ra của sản xuất: lương thực, của cải, hàng hóa tiêu dùng, cơ cấu xã hội chủ yếu là nông dân và công nhân. Trong đó, GDP phụ thuộc lớn vào nguồn vốn nước ngoài vào khai thác tài nguyên, giá công nhân rẻ, và lỗ hổng của luật pháp bảo vệ môi trường hay kiểm toán của ta nhưng nguồn tài nguyên chúng ta bắt đầu cạn dần như than thì phải nhập, rừng đã bị khai thác gần hết và thay bằng cà phê, chè và cây ăn quả… hay vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long bị khô cạn nguồn nước ngọt do những thủy điện và nạn chặt phá rừng ở các vùng thượng nguồn, nên nước mặn xâm lấn không trồng lúa được… Kinh tế số (KTS) chính là chìa khóa giúp chúng ta khỏi bẫy thu nhập trung bình.
KTS là nền kinh tế đề cập đến các hoạt động của con người có liên quan đến sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa, vui chơi, giải trí và dịch vụ dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT), chẳng hạn như Internet, điện thoại thông minh (smartphone), mạng di động và không dây, mạng cáp quang, Internet vạn vật (IoT), lưu trữ dữ liệu lớn và điện toán đám mây, chia sẻ dịch vụ, ứng dụng và tiền điện tử. Quy mô và tác động của nền KTS được thúc đẩy bởi việc mọi người áp dụng những công nghệ này ngày càng nhiều.
Đó là việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ kỹ thuật số ngày càng tăng, thường để thay thế cho hàng hóa vật lý và dịch vụ phi kỹ thuật số, chịu trách nhiệm cho sự phát triển này. Kỹ thuật số hàng hóa và dịch vụ là nền tảng thiết yếu của nền KTS. Cũng mặc dù hàng hóa và dịch vụ kỹ thuật số đã dần thay đổi thế giới kinh doanh đối với một số thời gian trôi qua, chúng ta vừa mới thấy sự khởi đầu của một cuộc cách mạng kinh tế là đầy đủ tiềm năng của nền KTS sắp được khai thác.
Một bước tiến quan trọng khác trong nền KTS là số lượng người sử dụng công nghệ băng hẹp và di động băng rộng công cộng. Di động băng hẹp di động hệ thống (2G) cung cấp các dịch vụ toàn cầu, chẳng hạn như cuộc gọi điện thoại và SMS. Băng thông rộng di động hệ thống di động (3G, 4G và 5G) hỗ trợ việc sử dụng điện thoại thông minh để truy cập Internet. Những công nghệ này cũng hỗ trợ điện thoại và SMS, loại bỏ dần việc sử dụng hệ thống 2G.
Số lượng người dùng của các mạng di động công cộng đã vượt qua dân số trên thế giới. Lý do là nhiều người có quyền truy cập vào nhiều hơn một thiết bị. Ví dụ, một smartphone cá nhân và một smartphone cho công việc. Hơn thế nữa, thông tin liên lạc di động được sử dụng làm bộ định tuyến cục bộ và để kết nối các cảm biến và các thiết bị khác trong Internet vạn vật (Internet of Things - IoT) và cơ sở hạ tầng công cộng được định hình bởi số hóa nền kinh tế.
CNTT-TT ở khắp mọi nơi xung quanh chúng ta - Internet, smartphone, máy tính xách tay, mạng không dây, ứng dụng và dịch vụ video trực tuyến, chẳng hạn như Netflix và HBO... CNTT-TT đã trở nên phổ biến, ít nhất là ở các nước phát triển.
Tốc độ đổi mới trong CNTT-TT diễn ra nhanh chóng và các công nghệ mới đang xuất hiện hàng năm. Trong vài thập kỷ qua, CNTT-TT đã thay đổi cách chúng ta làm việc, cách chi tiêu, đầu tư tiền và cách tiến hành công việc kinh doanh của mình. Viễn thông, tài chính và truyền thông là những ngành mà CNTT-TT đã thay đổi đáng kể bối cảnh kinh doanh.
Ví dụ, Spotify và các nhà cung cấp dịch vụ âm nhạc trực tuyến khác đã thay đổi hoàn toàn các mô hình kinh doanh của ngành công nghiệp âm nhạc; đặc biệt là dòng doanh thu từ bán lẻ CD. Vì ngày càng có nhiều nhạc được giao dịch trực tuyến, nhu cầu về các cửa hàng vật lý bán đĩa CD gần như biến mất. Từ năm 1999 doanh số bán đĩa nhạc trên toàn thế giới đã bắt đầu giảm và giảm tới 45% vào năm 2014. Năm 2014 cũng đánh dấu năm đầu tiên giao dịch âm nhạc trực tuyến bằng với doanh số bán hàng từ các định dạng vật lý, chẳng hạn như CD.
Trong khi đó, ngân hàng số đã thay đổi hoàn toàn cách chúng ta - với tư cách là người tiêu dùng - tiếp cận ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Hầu hết các hoạt động liên quan đến tài chính cá nhân hiện nay được thực hiện qua Internet bằng smartphone hoặc PC. Đối với người dùng ngân hàng điện tử đang hoạt động, không cần phải đến ngân hàng thực để thanh toán hóa đơn hay đăng ký tài khoản. Các khoản vay có thể được thương lượng với ngân hàng qua Internet. Người dùng cũng không cần dùng tiền mặt để thanh toán vé xe buýt, xe lửa, ô tô bãi đậu xe, hoặc taxi.
Tại nhiều sân bay, hành khách tự động làm thủ tục, đưa hành lý lên thắt lưng thả hành lý và đi qua cổng lên máy bay mà không cần sự tham gia của nhân viên mặt đất. Tất cả các dịch vụ hành khách đều hoàn toàn tự động, ngoại trừ kiểm soát an ninh.
Nền KTS mang lại nhiều lợi ích cho các cá nhân, DN và nền kinh tế nói chung. Với các cá nhân, nền KTS mang tăng cường khả năng tiếp cận thông tin và dịch vụ: Nền KTS giúp các cá nhân dễ dàng tiếp cận thông tin và dịch vụ từ khắp nơi trên thế giới. Điều này giúp họ nâng cao kiến thức, kỹ năng và cải thiện chất lượng cuộc sống, tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới. Nền KTS tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới trong các lĩnh vực như CNTT, TMĐT, dịch vụ trực tuyến,...; Nâng cao năng suất lao động. Công nghệ số giúp các cá nhân tự động hóa các công việc thủ công, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.
Với các DN, nền KTS giúp kết nối với khách hàng tốt hơn: Nền KTS giúp các DN dễ dàng kết nối với khách hàng trên toàn thế giới, từ đó mở rộng thị trường và tăng doanh thu; Tự động hóa các quy trình kinh doanh: Công nghệ số giúp các DN tự động hóa các quy trình kinh doanh, từ đó giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động; Tạo ra các mô hình kinh doanh mới: Công nghệ số giúp các DN tạo ra các mô hình kinh doanh mới, mang lại nhiều giá trị cho khách hàng và xã hội.
Với nền kinh tế nói chung, nền KTS giúp tăng trưởng kinh tế: Nền KTS giúp tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường năng suất lao động, mở rộng thị trường và tạo ra các mô hình kinh doanh mới; Tạo ra nhiều việc làm: Nền KTS tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp. Giảm thiểu ô nhiễm môi trường: Công nghệ số giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường do giảm nhu cầu di chuyển và sử dụng tài nguyên.
KTS học là ngành kinh tế học nghiên cứu các dịch vụ kỹ thuật số. Lĩnh vực học thuật của KTS trùng lặp và liên quan đến các lĩnh vực khác của kinh tế học. KTS còn được biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau, mỗi cách gọi có trọng tâm và phạm vi hơi khác. Một số trong số này là: Nền kinh tế mạng, nền kinh tế nền tảng, nền kinh tế thông tin, nền kinh tế dữ liệu, nền kinh tế ảo, nền kinh tế Internet, nền kinh tế chia sẻ…
Các thuật ngữ mới liên tục xuất hiện và mô tả của các thuật ngữ hiện tại được sửa đổi khi các nhà nghiên cứu đạt được mức tăng hiểu biết về lĩnh vực này và khi các công nghệ mới mở rộng ranh giới của nền KTS và tạo cơ hội kinh doanh mới.
Kinh tế tri thức là khái niệm không dễ hiểu vì dựa trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do vậy đã được hiểu nhiều ít khác nhau. Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức (knowledge-based economy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. Ví dụ, một chiếc iPhone rất nhỏ nhưng giá đến gần 2000 USD và trong đó hàm lượng chất xám chiếm tới 98% hay Grab với một phần mềm nhỏ đã điều khiển toàn bộ ngành taxi Việt Nam và các tài xế đã trở thành người làm thuê trên chính đất nước mình. Điều này cho thấy vai trò của tài nguyên trong kinh tế cổ điển đã không còn thuyết phục và cũng giải thích tại sao các nước giành được độc lập và thoát khỏi chế độ thuộc địa vẫn còn lận đận trong nghèo nàn.
Nền kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ bản sau:
(i) Tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp: Tri thức được sử dụng để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới, mang lại giá trị gia tăng cao. Tri thức cũng được sử dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DN và tổ chức.
(ii) Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra tri thức: Công nghệ giúp tạo ra các nguồn tri thức mới, bao gồm dữ liệu, thông tin, AI,... Công nghệ cũng giúp nâng cao hiệu quả sử dụng tri thức, giúp các DN và tổ chức dễ dàng tiếp cận, chia sẻ và ứng dụng tri thức.
(iii) Lao động tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao: Trong nền kinh tế tri thức, lao động tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Lao động tri thức là những người có trình độ học vấn cao, có khả năng sáng tạo và ứng dụng tri thức vào thực tiễn. Cơ cấu kinh tế thay đổi: Trong nền kinh tế tri thức, các ngành dịch vụ và ngành sản xuất công nghệ cao chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Theo Báo cáo Kinh tế Tri thức Thế giới năm 2022 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), các nước phát triển nền kinh tế tri thức tốt là những nước có nền kinh tế dựa trên tri thức, trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra giá trị và tăng trưởng kinh tế.
Mỹ là quốc gia dẫn đầu thế giới về kinh tế tri thức. Nền kinh tế của Mỹ dựa trên các ngành dịch vụ công nghệ cao, tài chính, giáo dục, y tế,... Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng. Nền kinh tế của Trung Quốc đang chuyển dịch từ sản xuất công nghiệp sang dịch vụ. Đức là quốc gia có nền kinh tế tri thức phát triển ổn định. Nền kinh tế của Đức dựa trên các ngành sản xuất công nghệ cao, dịch vụ CNTT, giáo dục, y tế,... Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế tri thức phát triển lâu đời. Nền kinh tế của Nhật Bản dựa trên các ngành sản xuất công nghệ cao, dịch vụ CNTT, giáo dục, y tế,... Hàn Quốc là quốc gia có nền kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng. Nền kinh tế của Hàn Quốc đang chuyển dịch từ sản xuất công nghiệp sang dịch vụ. Ngoài ra, các nước như Singapore, Thụy Sĩ, Canada,... cũng là những nước phát triển nền kinh tế tri thức tốt.
Các nước này có những đặc điểm chung là nền kinh tế có tỷ trọng ngành dịch vụ cao: Ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Các ngành dịch vụ chủ yếu là dịch vụ CNTT, tài chính, giáo dục, y tế…; Chất lượng nguồn nhân lực cao: Nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao, có khả năng sáng tạo và ứng dụng tri thức vào thực tiễn. Cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ (KHCN) phát triển: Cơ sở hạ tầng KHCN hiện đại, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và phát triển KHCN; Chiến lược phát triển kinh tế tri thức hiệu quả: Các quốc gia có chiến lược phát triển kinh tế tri thức phù hợp, tập trung vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển KHCN, sáng tạo và đổi mới; Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra giá trị. Tri thức bao gồm các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, kỹ thuật… được sử dụng để phát triển sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh…
KTS là nền kinh tế dựa trên việc sử dụng các công nghệ số để tạo ra, phân phối và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Công nghệ kỹ thuật số đóng vai trò là nền tảng của nền KTS, giúp tạo ra các giá trị mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thay đổi mô hình kinh doanh truyền thống.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra giá trị. Tri thức bao gồm các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, kỹ thuật,... được sử dụng để phát triển sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh,...
Nhìn chung, nền KTS và kinh tế tri thức có mối quan hệ mật thiết với nhau. Công nghệ số là công cụ để tạo ra và phát triển tri thức, còn tri thức là nền tảng để phát triển nền KTS. Cụ thể, mối quan hệ giữa nền KTS và kinh tế tri thức có thể được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Công nghệ số là nền tảng để phát triển kinh tế tri thức: Công nghệ số giúp tạo ra các nguồn tri thức mới, bao gồm dữ liệu, thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI),... Công nghệ số cũng giúp nâng cao hiệu quả sử dụng tri thức, giúp các DN và tổ chức dễ dàng tiếp cận, chia sẻ và ứng dụng tri thức.
Tri thức là động lực thúc đẩy phát triển nền KTS: Tri thức là yếu tố quan trọng để phát triển các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới trong nền KTS. Tri thức cũng giúp các DN và tổ chức nâng cao năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh.
Nền KTS và kinh tế tri thức cùng thúc đẩy sự phát triển của nhau: Sự phát triển của nền KTS giúp tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong lĩnh vực CNTT, truyền thông,... Đây là những lĩnh vực cần nhiều tri thức và kỹ năng công nghệ. Ngược lại, sự phát triển của kinh tế tri thức giúp cung cấp nguồn tri thức dồi dào cho nền KTS, thúc đẩy, sáng tạo và đổi mới và tạo ra các giá trị mới.
KTS là một kịch bản ứng dụng hiện tại của nền kinh tế tri thức và chúng ta nên coi là chiến lược phát triển kinh tế lâu dài. Có thể thấy rằng nền KTS và kinh tế tri thức là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển của hai nền kinh tế này có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Chúng ta muốn phát triển được nền KTS thì cần có chiến lược phát triển kinh tế tri thức hiệu quả, tập trung vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển KHCN, sáng tạo và đổi mới.
Có rất nhiều giải pháp có thể thúc đẩy hoạt động KTS của nước nhà. Trong đó có thể kể đến như đầu tư vào hạ tầng số. Việc đầu tư vào các cơ sở hạ tầng số, bao gồm mạng lưới viễn thông 5G, Internet băng rộng, các trung tâm dữ liệu và nguồn năng lượng tái tạo là rất quan trọng để xây dựng nền KTS xanh mạnh mẽ và bền vững.
Bên cạnh đó là phát triển các ứng dụng và dịch vụ số. Các ứng dụng và dịch vụ số có thể giúp cho các công ty và cá nhân trong việc tăng cường năng suất và tiết kiệm thời gian. Việt Nam cần phát triển các ứng dụng và dịch vụ số, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, bán lẻ, và du lịch.
Đồng thời, cần tăng cường đào tạo và phát triển nhân lực. Cần đào tạo và nâng cao năng lực cho nhân sự về công nghệ thông tin, đặc biệt là các kỹ sư và nhân viên kinh doanh có kỹ năng số. Cần thay đổi hệ thống giáo dục và đào tạo hiện nay, tập trung vào bồi dưỡng tài năng trẻ CNTT và tiếng Anh (vì tiếng Anh là nền tảng để học và cập nhật CNTT).
Ngoài ra, cần tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN viễn thông và công ty CNTT, bao gồm các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với các startup, và giảm bớt quy định thủ tục cho các DN. Để thu hút đầu tư và tăng cường sự phát triển của các công ty CNTT, cần tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm bản quyền và bảo mật thông tin. Hay cho các DN tham gia vào TMĐT, bao gồm cả các DN mới ra đời. Các chính sách hỗ trợ cho các DN này là tài chính và giáo dục.
Tiếp theo cần xây dựng hệ thống thanh toán trực tuyến an toàn và thuận tiện để khuyến khích người tiêu dùng mua sắm trực tuyến. Hệ thống này bao gồm các phương thức thanh toán trực tuyến, ví điện tử và các dịch vụ tài chính trực tuyến khác; Hoàn thiện các quy định pháp luật về TMĐT, quyền riêng tư và bảo mật dữ liệu của khách hàng.
Song hành với đó, cần xây dựng một hệ sinh thái số, bao gồm các DN công nghệ, các trung tâm đào tạo, các cơ quan chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Hệ sinh thái này sẽ cung cấp một môi trường thuận lợi cho việc phát triển KTS. Đồng thời cần tăng cường hợp tác với các quốc gia có nền KTS phát triển để học hỏi kinh nghiệm và kết nối với các công ty kỹ thuật số toàn cầu.
Thực vậy, xu thế phát triển KTS là sự chọn lựa tất yếu hiện nay và tương lai đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam, đây là chìa khóa đưa đất nước thoát khỏi “bẫy” thu nhập trung bình và hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045. Đồng thời, là biện pháp tối ưu nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.