Ngành Tài chính sẽ hình thành hệ sinh thái tài chính số toàn diện
Tóm tắt nội dung
* Ngành Tài chính chủ động chuyển đổi số (CĐS)
- Từ năm 2018 đến nay, Bộ Tài chính đã ban hành 01 Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng và nhiều quyết định của Bộ về CĐS, xây dựng Bộ TC số.
- Tính đến 15/11/2022, Bộ Tài chính đã cung cấp 55 dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 3, 409 DVCTT mức độ 4; trong đó 296 dịch vụ đã kết nối, tích hợp lên Cổng Dịch vụ công quốc gia (đạt tỷ lệ 63,79%).
- Bộ TC đã triển khai 02 nền tảng quan trọng: Nền tảng kết nối chia sẻ dữ liệu số ngành TC và Nền tảng trục liên thông văn bản điện tử ngành Tài chính; 12 cơ sở dữ liệu (CSDL) trong ngành Tài chính.
* Vướng mắc trong triển khai CĐS
- Nền tảng cho công cuộc CĐS đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng chưa toàn diện và đồng bộ.
- Việc rà soát, tái thiết kế quy trình, sửa đổi các văn bản cơ chế chính sách liên quan để phù hợp với CĐS.
- CĐS đòi hỏi cần có nguồn nhân lực chất lượng cao, tuy nhiên, tại Bộ Tài chính, nhiều đơn vị liên tục bị suy giảm nguồn nhân lực.
* Yêu cầu đặt ra với ngành Tài chính
Phấn đấu hình thành hệ sinh thái tài chính số toàn diện, hiện đại, phong phú trên mọi lĩnh vực
Kế hoạch CĐS của Bộ Tài chính
- Đến năm 2025, cắt giảm, tái cấu trúc, đơn giản hóa, chuẩn hóa, thống nhất các thủ tục hành chính (TTHC); cung cấp dịch vụ mới trên nguyên tắc đảm bảo chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, tăng năng suất lao động xã hội một cách chủ động, kịp thời đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- Thiết kế mô hình tổ chức, cách thức vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số.
- Doanh nghiệp (DN) có thể tham gia cung cấp dịch vụ công (DVC) hoặc phát triển những dịch vụ mới, sáng tạo, giúp xã hội có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng DVC của Bộ Tài chính.
Ngày 08/8/2022, tại Phiên họp lần thứ 3 của Ủy ban Quốc gia về CĐS, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) đã công bố Báo cáo kết quả đánh giá mức độ CĐS cấp bộ, cấp tỉnh năm 2021 (DTI 2021), trong đó, Bộ Tài chính tiếp tục xếp vị trí thứ nhất về mức độ CĐS năm 2021 khối các bộ cung cấp DVC... Đây cũng là năm thứ hai liên tiếp (2020 - 2021), Bộ Tài chính dẫn đầu về CĐS.
Để tiếp tục duy trì các thành tích đạt được và thực hiện các mục tiêu về CĐS trong lĩnh vực tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN), Bộ Tài chính xác định đẩy mạnh hơn nữa CĐS trong tổ chức, vận hành, quản lý và thực hiện các nhiệm vụ trên môi trường số để cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình nhằm phục vụ người dân, DN phù hợp với lộ trình CĐS của Chính phủ, góp phần giảm chi phí, tạo thuận lợi cho của DN, mang lại sự hài lòng của người dân, giúp người dân, doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào hoạt động của Bộ Tài chính để cùng tạo ra giá trị, lợi ích, sự hài lòng, niềm tin và đồng thuận xã hội.
Bộ Tài chính đã có những bước đi chủ động, tích cực ngay từ thời kỳ phát triển Chính phủ điện tử, nghiên cứu các sản phẩm, thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 và CĐS theo lộ trình chung của Chính phủ như: Nghị Quyết số 02-NQ/BCSĐ ngày 9/3/2018 về triển khai ứng dụng công nghệ của CMCN lần thứ 4 trong lĩnh vực tài chính - ngân sách; Quyết định số 446/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/BCSĐ; Quyết định số 844/QĐ-BTC về kế hoạch hành động của Bộ Tài chính triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử (CPĐT); Quyết định số 843/QĐ-BTC ngày 12/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Nghị quyết 50/NQ-CP ngày 17/4/2020; Quyết định số 1874/QĐ-BTC ngày 27/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình CĐS quốc gia; Quyết định số 2366/QĐ-BTC về viêc phê duyệt kiến trúc tổng thể hướng tới Bộ Tài chính số…
Tính đến ngày 15/11/2022, tổng số DVC trực tuyến (DVCTT) của Bộ Tài chính là 813, trong đó DVCTT mức độ 1 là 84, DVCTT mức độ 2 là 265, DVCTT mức độ 3 là 55, DVCTT mức độ 4 là 409. Tổng số DVCTT mức độ 3, 4 Bộ Tài chính đã hoàn thành kết nối, tích hợp lên Cổng DVC quốc gia là 296/464 (đạt tỷ lệ 63,79%), trong đó các đơn vị kết nối, tích hợp như sau: Tổng cục Thuế 97 DVCTT, Tổng cục Hải quan 98 DVCTT, Kho bạc Nhà nước 9 DVCTT, cơ quan Bộ Tài chính 56 DVCTT, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước 36 DVCTT.
Cụ thể, hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố và 100% chi cục thuế trực thuộc, 99,94% DN tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế điện tử. Tổng cục Thuế đã phối hợp với 55 ngân hàng thương mại và 63 cục thuế triển khai dịch vụ nộp thuế điện tử. Số lượng DN đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử với cơ quan thuế tỷ lệ 99,11%. Số lượng DN hoàn thành đăng ký dịch vụ nộp thuế điện tử với ngân hàng đạt tỷ lệ 98,60%.
Tổng số DN tham gia hoàn thuế điện tử là 7.395 trên tổng số 7.468 DN hoàn thuế, đạt tỷ lệ 99%. Số hồ sơ tiếp nhận là 16.496 hồ sơ trên tổng số 16.591 hồ sơ, đạt tỷ lệ 99%; tổng số hồ sơ hệ thống đã giải quyết hoàn là 15.742 hồ sơ với tổng số tiền đã giải quyết hoàn là 116.314 tỷ đồng.
Ngày 21/03/2022, Tổng cục Thuế đã chính thức công bố ứng dụng Cổng Thông tin điện tử (TTĐT) dành cho nhà cung cấp nước ngoài (NCCNN). Dựa trên các căn cứ pháp lý về quản lý thuế đối với các NCCNN đã hoàn thiện, Tổng cục Thuế đã xây dựng Cổng TTĐT dành cho NCCNN để NCCNN thực hiện việc đăng ký, kê khai, nộp thuế trực tiếp từ bất cứ đâu trên thế giới. Đã có 38 NCCNN đăng ký, kê khai thuế thành công.
Tổng cục Thuế đã hoàn thành triển khai khai thuế điện tử tờ khai đối với hoạt động cho thuê tài sản (trong đó có hoạt động cho thuê nhà) tại 63 cục thuế và các chi cục thuế trực thuộc. Từ ngày 30/6/2020, Tổng cục Thuế đã triển khai khai lệ phí trước bạ điện tử đối với ô tô, xe máy tại Cục Thuế TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Từ ngày 01/01/2022 - 15/10/2022, số lượng tờ khai điện tử dịch vụ khai lệ phí trước bạ điện tử đối với ô tô, xe máy tại Cục Thuế TP Hà Nội là 91.608 hồ sơ trên tổng số 327.542 hồ sơ, đạt tỷ lệ 27,97%; tại Cục Thuế TP Hồ Chí Minh là 111.468 hồ sơ trên tổng số 432.345 hồ sơ, đạt tỷ lệ 25,78%.
Đã có 353.029 giao dịch nộp lệ phí trước bạ ô tô, xe máy trên cả nước qua hình thức ibanking và mobile banking chiếm 8,94% trên tổng số 3.950.185 giao dịch lệ phí trước bạ ô tô, xe máy cả nước. Số lượt tải và cài đặt sử dụng ứng dụng nộp thuế điện tử eTax Mobile 212.600 lượt, số giao dịch qua ngân hàng thương mại 91.581 giao dịch với tổng số tiền trên 353 tỷ đồng (đã nộp thành công 119 tỷ đồng).
Hiện nay, đã có 249 TTHC của 13 bộ, ngành được chính thức triển khai trên Cơ chế một cửa quốc gia với trên 55.000 DN tham gia. Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan tiếp tục trao đổi thông tin chứng nhận xuất xứ mẫu D điện tử với tất cả 9 nước ASEAN gồm: Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Brunei, Campuchia, Myanmar, Lào và Philippine thông qua Cơ chế một cửa ASEAN. Tổng cục Hải quan đang triển khai kết nối thử nghiệm trao đổi tờ khai Hải quan ASEAN theo kế hoạch của ASEAN, chuẩn bị các yêu cầu liên quan để kết nối thử nghiệm trao đổi chứng nhận kiểm dịch thực vật trong năm 2022.
Tổng cục Hải quan đã nghiên cứu và từng bước ứng dụng các công nghệ của CMCN 4.0 trong quản lý nhà nước về hải quan: Công nghệ Internet kết nối vạn vật (IoT); phân tích dữ liệu lớn (BI); công nghệ di động (mobile platform); công nghệ chuỗi khối (blockchain),...
Đối với lĩnh vực kho bạc, Kho bạc nhà nước đã tích cực hiện đại hóa trong công tác quản lý thu, chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch về quy trình, thủ tục hành chính (TTHC); hiện đại về công nghệ; đảm bảo quản lý chặt chẽ NSNN hướng đến mục tiêu xây dựng Kho bạc điện tử, tiến tới Kho bạc số với 3 không “Không khách hàng tại trụ sở”, “Không tiền mặt” và “Không giấy tờ”.
Hiện nay, hệ thống DVCTT mức độ 4 của Kho bạc Nhà nước hoạt động ổn định, thông suốt, phục vụ 100% đơn vị thuộc đối tượng bắt buộc tham gia DVCTT mức độ 4 của kho bạc nhà nước, với số lượng giao dịch hồ sơ chứng từ chi ngân sách nhà nước phát sinh đạt 99% lượng chứng từ chi của toàn quốc trên TABMIS; 100% các TTHC được tích hợp trên Cổng DVC quốc gia. Đã có 90% đơn vị sử dụng ngân sách cài đặt ứng dụng cảnh báo rủi ro trên thiết bị di động để tra cứu kịp thời biến động số dư tài khoản và kết quả xử lý giao dịch hồ sơ chứng từ trên hệ thống DVCTT nhằm phòng ngừa rủi ro và công khai minh bạch.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Chính phủ tiếp tục ban hành thêm nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể để CĐS gia với 03 trụ cột chính là Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, yêu cầu đặt ra đối với Bộ Tài chính là cần có một kế hoạch triển khai một cách tổng thể, toàn diện và bao quát mang tính dài hạn.
Với bối cảnh và thực tiến như trên, CĐS trong hoạt động của cơ quan Nhà nước (CQNN), đặc biệt là trong cơ quan Tài chính, đối với lĩnh vực tài chính là điều tất yếu xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của người dân, DN và là một thách thức không nhỏ đối với ngành Tài chính vừa để đảm bảo thực hiện đúng các quy định, chính sách của Đảng, Nhà nước về CĐS, vừa để phù hợp với xu thế của xã hội, đáp ứng tốt cho các hoạt động, dịch vụ tài chính số phục vụ người dân, DN.
Bộ Tài chính đã tập trung đầu tư phát triển mạnh mẽ về trang thiết bị công nghệ thông tin (CNTT), hệ thống máy chủ, lưu trữ phục vụ cho từng hoạt động nghiệp vụ. Về hệ thống mạng, Bộ Tài chính tổ chức triển khai hệ thống mạng truyền dữ liệu ngành Tài chính kết nối đến 2737 đơn vị để thực hiện kết nối, trao đổi dữ liệu giữa các đơn vị trong ngành.
Bộ Tài chính triển khai nhiều hệ thống ứng dụng, dịch vụ số trong đó tập trung trên 03 nhóm chính: Ứng dụng phục vụ người dân DN (813 DVCTT, cấp mã số, hóa đơn điện tử, Etax Mobile…); Các ứng dụng nghiệp vụ cốt lõi (quản lý thuế tập trung TMS, hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS, hệ thống quản lý ngân sách và kho bạc TABMIS ….); Ứng dụng phục vụ hoạt động nội bộ (Chương trình quản lý văn bản điều hành, quản lý cán bộ, thi đua khen thưởng…)
Bộ Tài chính đã triển khai 02 nền tảng quan trọng gồm: Nền tảng kết nối chia sẻ dữ liệu số ngành Tài chính (KCDTC) để kết nối trao đổi chia sẻ dữ liệu về số NSNN giữa 03 đơn vị thuế, kho bạc, hải quan và dữ liệu giữa các đơn vị khác trong ngành Tài chính; Nền tảng trục liên thông văn bản điện tử ngành Tài chính để kết nối, chia sẻ dữ liệu văn bản điện tử giữa các đơn vị trong ngành Tài chính.
Hiện nay, Bộ Tài chính đã xây dựng 12 CSDL trong ngành Tài chính gồm: NSNN, thuế, kho bạc, hải quan, chứng khoán, dự trữ, tài sản công, giá, bảo hiểm, nợ công, tài chính DN, danh mục dùng chung. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đang tập trung xây dựng CSDL quốc gia về tài chính.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã triển khai các giải pháp an toàn bảo mật theo quy định về an toàn bảo mật, đồng thời thuê dịch vụ giám sát an toàn bảo mật tại cơ quan Bộ Tài chính và một số đơn vị tổng cục.
Mặc dù, Bộ Tài chính đã chuẩn bị những nền tảng cho công cuộc CĐS và đạt được một số kết quả tích cực, nhưng chưa toàn diện và đồng bộ. Theo đó, cần có sự huy động nguồn lực của tập thể, của cả hệ thống chính trị vào cuộc để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ CĐS ngành Tài chính trong giai đoạn từ nay đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Theo Bộ Tài chính, việc triển khai các nhiệm vụ CĐS đòi hỏi phải nhanh chóng, kịp thời tuy nhiên các cơ chế chính sách về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và CĐS còn nhiều quy trình thủ tục (từ bước phê duyệt chủ trương, lập dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi… cho đến lúc hoàn thành dự án), mất nhiều thời gian. Một dự án CNTT nếu nhanh thì triển khai mất 02 năm, nếu lâu có thể kéo dài đến 04 năm. Lúc triển khai xong dự án thì công nghệ đã cũ và lỗi thời.
Việc triển khai ứng dụng CNTT dựa trên các quy định tại các văn bản cơ chế chính sách về nghiệp vụ, mô hình hoạt động, cơ cấu tổ chức của từng đơn vị… Tuy nhiên, việc triển khai CĐS thì ngược lại, có thể làm thay đổi về quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình tổ chức, cơ cấu hoạt động nên khó khăn nhất chính là việc rà soát, tái thiết kế quy trình, sửa đổi các văn bản cơ chế chính sách liên quan để phù hợp với CĐS.
Mặc dù, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn nghiên cứu triển khai ứng dụng các sản phẩm công nghệ số của cuộc CMCN 4.0, tuy nhiên, do chưa có quy định về đơn giá, định mức cho các sản phẩm định mức này, theo đó công tác xây dựng dự toán còn gặp nhiều khó khăn. CĐS là một lĩnh vực mới, cần có sự tham gia vào cuộc của các đơn vị tư vấn, các chuyên gia về CĐS, công nghệ số. Tuy nhiên, đến nay chưa có định mức cho nhân công và các chuyên gia trong lĩnh vực CĐS, công nghệ số.
CĐS đặt ra yêu cầu đòi hỏi cần có nguồn nhân lực chất lượng cao, tuy nhiên tại Bộ Tài chính, nhiều đơn vị liên tục bị suy giảm nguồn nhân lực. Nguyên nhân chủ yếu đến từ thu nhập. CQNN trả lương theo hệ số và mức lương cơ bản, thấp hơn nhiều so với các DN tư nhân hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ số, chưa có chính sách thúc đẩy thu hút nguồn nhân lực CĐS chất lượng cao. Do vậy, trong cơ quan hành chính nhà nước nói chung và Bộ Tài chính nói riêng chưa thu hút được nguồn nhân lực CĐS do chưa có các chính sách, ưu đãi riêng cho việc tuyển dụng nguồn nhân lực CĐS.
Từ các khó khăn như trên, yêu cầu đặt ra của ngành Tài chính là phấn đấu hình thành hệ sinh thái tài chính số toàn diện, hiện đại, phong phú trên mọi lĩnh vực. Để hình thành được hệ sinh thái tài chính số, toàn bộ mọi hoạt động nghiệp vụ của ngành Tài chính trước tiên phải được tin học hóa; từ đó sinh ra dữ liệu, sau cùng là áp dụng các sản phẩm công nghệ số như: dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), IoT, chatbot... để phân tích, xử lý dữ liệu phục vụ cho công tác chỉ đạo điều hành của Bộ Tài chính, cũng như cung cấp dữ liệu, dịch vụ số phục vụ tốt hơn cho người dân, DN.
Với yêu cầu đặt ra như trên, việc Bộ Tài chính cần xây dựng một chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai các nhiệm vụ CĐS của ngành Tài chính là cần thiết. Theo đó, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 1484/QĐ-BTC ngày 27/7/2022 về việc phê duyệt kế hoạch CĐS của Bộ Tài chính đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Đây là kế hoạch hành động mang tính tổng thể, toàn diện của Bộ Tài chính nhằm giúp các đơn vị trong ngành Tài chính dễ dàng theo dõi, bám sát triển khai các nhiệm vụ CĐS của đơn vị mình, một mặt giúp các đơn vị có cái nhìn toàn diện hơn về bức tranh CĐS tổng thể ngành Tài chính, nhằm đưa ra được định hướng phát triển, lộ trình cụ thể đối với các nhiệm vụ của đơn vị mình để phù hợp với tổng thể chung của ngành.
Ngày 27/7/2022, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 1484/QĐ-BTC về việc ban hành Kế hoạch CĐS của Bộ Tài chính đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Quyết định này thay thế Quyết định số 1874/QĐ-BTC ngày 27/11/2020 của Bộ Tài chính về ban hành kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 phê duyệt chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Theo đó, Bộ Tài chính xác định đến năm 2025, cắt giảm, tái cấu trúc, đơn giản hóa, chuẩn hóa, thống nhất các TTHC; cung cấp dịch vụ mới trên nguyên tắc đảm bảo chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, tăng năng suất lao động xã hội một cách chủ động, kịp thời đáp ứng nhu cầu của xã hội. Người dân, DN có thể sử dụng dịch vụ số theo nhu cầu cá thể hóa, theo suốt cuộc đời, khi cần, theo cách thuận tiện, trực tuyến hoặc trực tiếp, dễ dàng, đơn giản, nhanh chóng, không giấy tờ, không cần sự hiện diện nếu pháp luật không yêu cầu.
Một số chỉ tiêu cụ thể: 100% TTHC đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 100% DVCTT được thiết kế, thiết kế lại nhằm tối ưu hóa trải nghiệm người dùng, khi sử dụng được điền sẵn tối đa thông tin, dữ liệu mà người dùng đã cung cấp trước đó theo thỏa thuận hoặc được thu thập, chia sẻ phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng; 100% giao dịch trên Cổng DVC và Hệ thống thông tin một cửa điện tử của Bộ Tài chính được xác thực điện tử, ngoại trừ các dịch vụ yêu cầu sự hiện diện bắt buộc theo quy định của pháp luật; Cổng DVC và Hệ thống thông tin một cửa điện tử Bộ Tài chính được kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng DVC quốc gia. Tích hợp 100% DVCTT mức độ 3, 4 phổ biến, liên quan tới nhiều người dân, DN được tích hợp lên Cổng DVC quốc gia;...
Bộ Tài chính thiết kế mô hình tổ chức, cách thức vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, tạo ra môi trường làm việc và công cụ làm việc để cán bộ, công chức, viên chức có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, kết nối và hợp tác với nhau dễ dàng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn. Cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng phân tích, khai thác dữ liệu và công nghệ số, có năng lực kiến tạo phát triển, dẫn dắt CĐS trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương.
Người dân, DN và các tổ chức khác có thể dễ dàng tham gia ý kiến đóng góp cho hoạt động của Bộ Tài chính, phản ánh những vấn đề của xã hội xung quanh mình tới CQNN và nhận được ý kiến phản hồi về sự tham gia, kết quả tham gia của mình.
DN có thể tham gia cung cấp DVC hoặc phát triển những dịch vụ mới, sáng tạo, giúp xã hội có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng DVC của Bộ Tài chính. Bộ Tài chính, người dân, DN và các tổ chức khác cùng tham gia phổ cập việc sử dụng DVC nói riêng, CĐS nói chung.
Có thể thấy, khối lượng công việc của ngành Tài chính tại Quyết định số 1484/QĐ-BTC rất lớn, CĐS ngành Tài chính sẽ vấp phải nhiều khó khăn, vướng mắc và cần phải có một khoảng thời gian nhất định (ít nhất là cho đến năm 2030) để hình thành hệ sinh thái số cho ngành Tài chính toàn diện, phong phú, hiện đại. Việc triển khai tốt các nhiệm vụ CĐS tại Quyết định số 1484/QĐ-BTC sẽ từng bước thay đổi mọi hoạt động cho cho các cá nhân, tổ chức trong ngành Tài chính, cụ thể: Thay đổi phương thức chỉ đạo điều hành, hoạt động dựa trên dữ liệu số; Thay đổi quy trình làm việc từ thủ công sang môi trường số, Thay đổi phương thức người dân, ĐN sử dụng dịch vụ số… giúp nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, tiết kiệm thời gian, chi phí trong công tác quản lý, điều hành và các hoạt động khác của Bộ Tài chính cũng như tiết kiệm thời gian chi phí cho người dân DN khi tham gia sử dụng các dịch vụ của Bộ Tài chính./.
Tài liệu tham khảo