Những lưu ý khi triển khai ĐTTM bền vững
Đô thị thông minh - Ngày đăng : 06:18, 20/06/2022
Nghị quyết chuyên sâu của Đảng về đô thị hoá và phát triển bền vững
Nhằm đề ra các chủ trương, đường lối để lãnh đạo, chỉ đạo về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị ở Việt Nam trong thời gian tới và cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII thông qua, ngày 24/01/2022 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về "Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Đây là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về đô thị hóa và phát triển đô thị, có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới.
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về "Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư" đã đề ra mục tiêu hình thành một số chuỗi ĐTTM tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng lưới ĐTTM trong khu vực và thế giới. Những nội dung quan trọng này cũng được đề ra trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Phát triển ĐTTM cũng nhận được sự quan tâm lớn của Chính phủ, ngày 01/8/2018, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 950/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án phát triển ĐTTM bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030. Đến nay, trên cả nước đã có 41/63 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đã hoặc đang triển khai xây dựng đề án phát triển ĐTTM, trong đó có đề án, kế hoạch được ban hành cho toàn tỉnh và đề án, kế hoạch ban hành cho một đô thị thuộc tỉnh.
Cần đột phá về phát triển đô thị
Phát biểu tại phiên toàn thể của Diễn đàn phát triển bền vững đô thị Việt Nam 2022 diễn ra trong hai ngày 16 - 17/6/2022, với chủ đề "Phát triển đô thị bền vững theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh", Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh lưu ý 6 nội dung quan trọng.
Cụ thể, 6 nội dung gồm: (1)cần đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức về đô thị hóa và phát triển đô thị bền vững; (2) chọn khâu đột phá quan trọng nhất để xây dựng và phát triển đô thị bền vững là đổi mới toàn diện về phương pháp, quy trình, nội dung và sản phẩm quy hoạch đô thị; (3) đẩy nhanh hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính sách tạo thuận lợi cho quá trình đô thị hoá, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững; trong đó, trọng tâm là xây dựng Luật để quản lý phát triển đô thị bền vững; (4) thực hiện phân cấp và phân quyền mạnh mẽ hơn cho chính quyền các đô thị: (5) phát huy và khai thác tốt các nguồn lực từ chính đô thị để nuôi dưỡng và phát triển đô thị, trong đó quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị; (6) thực hiện cấu trúc lại không gian phát triển kinh tế đô thị; nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng mật độ kinh tế và tính liên kết vùng, liên kết giữa các đô thị, liên kết giữa đô thị và nông thôn trong phát triển kinh tế đô thị; đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của các đô thị thông qua phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đề nghị Bộ Xây dựng và các địa phương cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số (CĐS) trong công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị thông qua các chương trình, đề án; ứng dụng rộng rãi hệ thống thông tin địa lý (GIS) và công nghệ số, nền tảng số trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Đồng thời, cần sớm chủ trì, phối hợp các bộ ngành liên quan và các địa phương xây dựng hệ thống dữ liệu toàn quốc về quy hoạch phát triển đô thị theo chủ trương đã nêu tại Nghị quyết 06/NQ-TW.
Mỗi địa phương căn cứ vào lợi thế và định hướng phát triển để xác định các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Theo đó, các đô thị đặc biệt và các đô thị lớn cần chú trọng phát triển kinh tế dịch vụ, các ngành công nghiệp chế tạo tiên tiến và có tính chiến lược, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, kinh tế du lịch, thể thao.
Các đô thị nhỏ cần tập trung phát triển kinh tế gắn với chuỗi giá trị kinh tế nông nghiệp nông thôn và phát triển dịch vụ xã hội; khuyến khích phát triển các thị tứ, thị trấn nông - công nghiệp trên cơ sở các khu dân cư nông thôn hiện có trở thành các trung tâm dịch vụ, sản xuất, chế biến, cung cấp thực phẩm, nguyên liệu, chuyển giao công nghệ....; chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao tại các đô thị.
Phát triển hệ thống công nghệ số để quản lý đất đai
Trao đổi tại Diễn đàn Giám đốc Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam Carolyne Turk cho biết đô thị hoá là một chương trình quan trọng của chính phủ các nước và người dân cũng được hưởng lợi từ chiến lược đô thị hoá này.
Theo bà Carolyne Turk, đô thị hoá cần phải tập trung vào một số lĩnh vực chính. Đầu tiên là nâng cao hiệu quả, hiệu suất của hiệu ứng tích tụ do quá trình kinh tế mang lại. Bên cạnh đó, cũng cần phải nâng cao hiệu suất, hiệu quả sử dụng các tài nguyên, thiên nhiên như là đất đai và nguồn nhân lực lao động của Việt Nam. Các đô thị cũng cần phải có sức chống chịu cao, có khả năng đối phó với những mối đe doạ mới gắn với biến đổi khí hậu gây ra và có những biện pháp hoá giải những cái ảnh hưởng tiêu cực, duy trì sự phát triển trong tương lai.
Trong những thập kỷ vừa qua, quá trình đô thị hoá diễn ra rất nhanh chóng trong những thập kỷ vừa qua. Từ 2000 - 2015, dân số đô thị của Việt Nam vẫn là xấp xỉ 1.500/m2 người và thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực. Để kiểm soát tốt hơn mật độ, bà Carolyn cho biết Việt Nam có thể thực hiện phân vùng, tối ưu hoá sử dụng đất đai, áp dụng những chính sách phát triển đô thị chặt chẽ hơn cả ở khu vực đô thị và khu vực nông thôn của Việt Nam.
Bà Carolyn đề xuất cần có một hệ thống hiện đại dựa trên công nghệ số để quản lý đất đai, tạo ra một tiền đề để chuyển sang định giá đất đai dựa trên cơ chế thị trường. Để nâng cao năng lực, hiệu suất của Việt Nam thì cũng cần phải đưa ra những định hướng phát triển và phát triển lại các khu vực đô thị, đặc biệt là những cơ sở hạ tầng giao thông đô thị công suất lớn cũng như phát triển theo hướng đô thị nén để nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên.
Cũng theo Giám đốc WB, Việt Nam cần tiếp cận sử dụng cách đánh giá khoa học tổng thể, công cụ toàn diện để khai thác sức mạnh của các công nghệ mới và thông minh, chẳng hạn như là công nghệ GIS, công nghệ Lidar dữ liệu lớn và AI, nhắm giúp mở khoá những thông tin chi tiết về yêu cầu hiện tại và tương lai của các thành phố.
Bên cạnh đó, cần xem xét sử dụng công cụ CityCam để phân tích dữ liệu lớn, đánh giá về thách thức chống chịu của thành phố. Công cụ có 1 bộ bản đồ trực quan hoá dữ liệu, phân tích kinh tế và diễn giải bằng văn bản lời nói dựa trên các bộ dữ liệu toàn cầu tốt nhất hiện nay. Việc đánh giá này cũng góp phần hiểu biết không gian, tập trung vào những lĩnh vực như là hạ tầng, cạnh tranh của thành phố và hoạt động kinh tế, hình thức xây dựng, điều kiện khí hậu và xác định các loại rủi ro khác nhau. CityCam cũng khai thác những tiến bộ công nghệ, đặc biệt là công nghệ viễn thám.
Phát triển hạ tầng số cho ĐTTM
Trao đổi về vai trò của hạ tầng số trong đô thị hoá, triển khai ĐTTM bền vững tại phiên toàn thể của Diễn đàn, ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel cho biết Nghị quyết 06/NQ-TW nêu rõ về các mục tiêu cho một ĐTTM liên quan đến các lĩnh vực CĐS, ví dụ như các mục tiêu liên quan đến phủ sóng 4G, 5G, cáp quang đến nhà thuê bao… Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ xây dựng và thúc đẩy đầu tư, phát triển hạ tầng số đồng bộ với một số nước trong khu vực và trên thế giới.
Chủ tịch Viettel cho biết Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng đáp ứng hạ tầng số tương đương với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, để có được hạ tầng số thì phải có hạ tầng thụ động và cần có quy hoạch tổng thể cho hạ tầng này. Các tỉnh, thành phố có trách nhiệm cùng với các nhà mạng triển khai xây dựng hạ tầng thụ động. Xây dựng hạ tầng thụ động cũng cần đảm bảo xanh hoá đô thị. Bên cạnh đó, cũng cần quy hoạch trung tâm dữ liệu (TTDL) khi các TTDL không chỉ cần diện tích mà cần khu vực có điện, môi trường tốt. Bộ Xây dựng và Bộ TT&TT xem xét có quy hoạch cho hạ tầng thụ động này.
"Nhà mạng hoàn toàn tự tin về công nghệ, con người, tài chính và làm được nếu có quy hoạch hạ tầng đầy đủ", Chủ tịch Viettel chia sẻ.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Nam Long, Phó Tổng giám đốc VNPT cho biết để có ĐTTM thì phải có 3 trụ cột: Nền tảng, công nghệ và dữ liệu số. Khi xây dựng ĐTTM thì nói nhiều về xây dựng hạ tầng giao thông, điện, nước, nhưng hạ tầng quan trọng của ĐTTM là hạ tầng số, bao gồm: hạ tầng viễn thông, cáp quang, Internet, phủ sóng và sắp tới đây là điện toán đám mây. VNPT đề nghị khi đưa ra các quy chế, quy chuẩn cho khu đô thị thì nên phải có quy chuẩn hạ tầng viễn thông, hạ tầng số.
Bên cạnh đó, ông Long cho biết ĐTTM cũng phải có công dân số. Bên cạnh đó, cần huy động nguồn lực DN, xã hội hoá để xây dựng ĐTTM đảm bảo lợi ích các bên người dân, chính quyền, DN.
Từ thực tiễn triển khai ĐTTM Bắc Hà Nội liên doanh bởi Tập đoàn Sumitomo Nhật Bản, bà Nguyễn Thị Nga, Chủ tịch Tập đoàn BRG cho biết việc phát triển quy hoạch đô thị là một vấn đề rộng lớn và có nhiều cách tiếp cận. Có 4 yếu tố cơ bản và quan trọng nhất cấu thành nên ĐTTM phát triển bền vững, đó là: tăng trưởng kinh tế; phát triển con người; đổi mới công nghệ; quản lý và tổ chức hiệu quả./.