Đẩy nhanh số hóa nền kinh tế - khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới
Chuyển đổi số - Ngày đăng : 05:58, 05/06/2022
Theo báo cáo của WB, Việt Nam có khát vọng trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Để thực hiện khát vọng này, Việt Nam không chỉ cần xác định đúng những ưu tiên phát triển trong bối cảnh đứng trước nhiều thách thức phức tạp mới phát sinh trong nước và toàn cầu, mà còn cần phải cải cách thể chế để có thể thực thi những ưu tiên của đất nước một cách hiệu quả.
Trong báo cáo này, nhóm chuyên gia của WB đã đưa ra 6 ưu tiên phát triển được định hình lại bởi cuộc khủng hoảng COVID-19 của Việt Nam.
Những ưu tiên này nhằm giúp Việt Nam hồi phục tốt hơn sau đại dịch COVID-19 bằng cách nhấn mạnh hơn sự cần thiết của việc thích ứng với "bình thường mới". Những thích ứng này không chỉ yêu cầu phải đối phó với những rủi ro tăng cao, như bất ổn tài chính và tài khóa hoặc bất bình đẳng gia tăng, mà còn phải nắm bắt cơ hội mới xuất hiện từ chuỗi giá trị toàn cầu đã thay đổi hoặc từ sự tăng tốc của chương trình tăng trưởng xanh và chuyển đổi số (CĐS).
Đẩy nhanh số hóa nền kinh tế
Các biện pháp giãn cách xã hội đã giúp hạn chế việc lây lan COVID-19 và khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế không tiếp xúc.
Trong 12 tháng qua, các công cụ số đã được Việt Nam đón nhận với tốc độ ngày càng nhanh. Các cuộc khảo sát tần suất cao của WB chỉ ra rằng, kể từ khi bắt đầu đại dịch, cứ 3 doanh nghiệp (DN) thì có tới gần 2 DN trong số đó, bất kể quy mô và vị trí, đã sử dụng các công cụ CNTT.
Tỷ lệ sử dụng Internet cũng tăng lên nhanh chóng, từ 52,5% năm 2017 lên khoảng 70% năm 2020 - với tỷ lệ thâm nhập thậm chí còn cao hơn trong nhóm dân số trẻ. Kết quả, Việt Nam trở thành thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất ở Đông Á trong năm 2020 và số hộ gia đình mua sắm trực tuyến đã tăng 30% kể từ khi đại dịch bùng phát.
Một số công ty công nghệ hàng đầu thế giới cũng đã có mặt ở Việt Nam. Khu vực tư nhân đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy CĐS của nền kinh tế, cũng như việc khuyến khích và tài trợ cho đổi mới sáng tạo. Chính phủ có thể đẩy mạnh việc hợp lý hóa và tinh giản quy trình, thủ tục đăng ký, cấp phép đối với DN công nghệ, đồng thời củng cố hệ sinh thái cho việc khởi nghiệp trong lĩnh vực số và tạo dựng môi trường thuận lợi để tài trợ cho các DN công nghệ.
Chính phủ cũng đã đẩy mạnh số hóa các dịch vụ. Sự ra mắt của Cổng Dịch vụ công trực tuyến đã mang lại hiệu quả đột phá. Chỉ trong hơn 2 năm ra mắt, từ không có dịch vụ, thủ tục nào, đến nay đã có 6.724 dịch vụ công (DVC). Cả nước có khoảng trên 8.000 dịch vụ, trong đó có 3.617 DVC trực tuyến mức độ 3, 4, đã giúp cho 471 triệu lượt người truy cập, với 1,65 triệu tài khoản đăng nhập, và đã có 110 triệu bộ thủ tục hành chính được đồng bộ.
Số lượt truy cập hàng tháng vào Cổng DVC quốc gia tăng từ 11.000 lượt vào tháng 1/2020 lên 125.000 lượt vào tháng 4/2021.
Tại buổi công bố báo cáo, ông Mai Tiến Dũng, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ nhấn mạnh việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong hệ thống giải quyết thủ thục hành chính từ Trung ương đến địa phương đã đáp ứng được một phần quan trọng yêu cầu của người dân và DN.
Cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và cải thiện chất lượng cung cấp DVC trực tuyến phục vụ người dân, DN, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc CĐS quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn 2030.
Việc triển khai chương trình căn cước công dân (ID) quốc gia đã được đẩy mạnh tăng tốc vào nửa đầu năm 2021, với việc thu thập thông tin và phát hành hơn 50 triệu căn cước công dân số hóa vào đầu tháng 7/2021.
Để thực hiện được hiệu quả các mục tiêu này, ông Mai Tiến Dũng cho biết giải pháp hữu hiệu đó là ứng dụng công nghệ số và kết nối chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan các cấp, tức là kết nối ngang, kết nối dọc và người dân, DN được trực tiếp tham gia những thủ tục hành chính mà không phụ thuộc vào thời gian, không gian địa giới hành chính.
Theo WB, Chính phủ cần hiểu rõ rằng CĐS có thể giúp đất nước chuyển đổi từ nền kinh tế có thu nhập trung bình sang nền kinh tế có thu nhập cao bằng cách đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội (SEDS) mới của mình.
Nhấn mạnh về vai trò của CĐS, ông Trương Gia Bình, CEO của FPT cũng cho biết: "CĐS là từ khóa rất nóng và đây cũng chính là chìa khóa để Việt Nam có thể vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Với CĐS, chúng ta sẽ có sự thay đổi về tư duy, về cách làm việc, tất cả đều xoay quanh CĐS".
"CĐS không chỉ nói đến công nghệ, cũng không phải là chuyển đổi hành chính mà chuyển đổi con người mới là quan trọng nhất", ông Trương Gia Bình khẳng định.
Một số khuyến nghị giải quyết thách thức và rủi ro
Theo các chuyên gia WB, những điểm yếu chính của Việt Nam nằm ở năng lực đổi mới hạn chế và thiếu hụt kỹ năng số, đây là một phần của tình trạng thiếu hụt kỹ năng trên bình diện rộng ở Việt Nam và sự chú trọng thiếu cân bằng giữa an ninh thông tin và quyền riêng tư trong việc truy cập và sử dụng dữ liệu.
Ngày nay, dù đã nhanh chóng áp dụng các công cụ CNTT, hầu hết các công ty không thể tối đa hóa lợi ích mong đợi vì họ vẫn tiếp tục sử dụng các công cụ đó chỉ để thực hiện các quy trình nghiệp vụ cơ bản như quản trị kinh doanh, kế toán, bán hàng và phương thức thanh toán.
Chỉ các công ty lớn mới chứng tỏ được ít nhiều năng lực sử dụng các công cụ số cho các chức năng kinh doanh phức tạp hơn như lập kế hoạch sản xuất, quản lý chuỗi cung ứng, và chế tạo, vì họ có cả nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực để áp dụng các công cụ số này.
Báo cáo WB cũng cho biết, giải quyết những thách thức về khả năng tiếp cận dữ liệu mở hạn chế, năng lực sáng tạo tương đối yếu, rào cản đối với các DN số thành lập mới và chỉ một số lượng nhỏ công nhân có kỹ năng số là điều rất quan trọng nếu Việt Nam muốn tận dụng tối đa quá trình CĐS đang diễn ra, đặc biệt là để tránh sự xuất hiện của khoảng cách số.
Rủi ro chính đối với Việt Nam không nằm ở việc tiếp cận không bình đẳng với các công cụ số, vì việc sử dụng điện thoại di động và thậm chí cả Internet đã phổ biến ở các bộ phận lớn dân số Việt Nam, mặc dù có sự chênh lệch về thời gian sử dụng và chất lượng kết nối. Rủi ro, đúng hơn, nằm ở tiếp cận không đồng đều đối với thông tin và dữ liệu có chất lượng.
Báo cáo Phát triển thế giới năm 2021 của WB nhấn mạnh rằng nhiều lợi ích của nền kinh tế ảo sẽ được định hình bởi khả năng tiếp cận và chất lượng thông tin mà các công cụ số truyền tải đến người dùng. Những thông tin như vậy không chỉ là một trong những thành phần quan trọng của trí tuệ nhân tạo mà còn là đầu vào quan trọng cho nhiều dịch vụ trực tuyến, thành phố thông minh, quy trình sản xuất và dịch vụ kho vận (logistics).
Rủi ro thứ hai đối với Việt Nam liên quan đến khả năng bị mất việc làm. Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh rằng 20 - 30% công việc hiện có ở Việt Nam đang gặp rủi ro. Các DN sẽ thay thế lao động phổ thông bằng vốn kỹ thuật số trong quá trình chuyển đổi của mình và các lĩnh vực sử dụng nhiều vốn kỹ thuật số sẽ phát triển nhanh hơn các lĩnh vực khác do năng suất tăng cao hơn và nhu cầu đối với sản phẩm của họ lớn hơn.
Những tác động tiêu cực này đối với các công việc "có truyền thống dùng lao động không có kỹ năng" chỉ có thể được bù đắp bằng gia tăng lao động có kỹ năng và tăng tổng năng suất nhờ áp dụng các công nghệ mới của cả khu vực tư nhân và nhà nước, từ đó lại sẽ tạo ra một nhu cầu mới về lao động.
Do đó, nhóm chuyên gia của WB cho rằng, trong tương lai, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc, vốn sẽ cần được bảo trì và hiện đại hóa trong vài năm tới. Ngoài đầu tư vào cơ sở hạ tầng cứng hiện đại, các chuyên gia WE cũng đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam. Cụ thể:
Xem xét lại chính sách đổi mới sáng tạo, có thể giảm sự quan tâm tới nghiên cứu và phát triển (R&D), và thay vào đó khuyến khích nhiều công ty tiếp nhận, áp dụng và thích ứng với các công nghệ và công cụ số mới. Điều này đòi hỏi phải nuôi dưỡng môi trường mở và cạnh tranh, đồng thời hỗ trợ thành lập và phát triển các công ty khởi nghiệp sáng tạo và các DN nhỏ cũng như hỗ trợ số hóa các hoạt động kinh doanh.
Chính phủ nên xử lý một số hạn chế trên thị trường hiện có bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận thông tin, dữ liệu và hỗ trợ nguồn vốn ban đầu cho các nhà đổi mới sáng tạo. Chính phủ cũng có thể khuyến khích phát triển các DN cung cấp dịch vụ hỗ trợ CĐS hoặc nội dung số cho các công ty khởi nghiệp hoặc các công ty nhỏ - thường không có đủ nguồn lực để tự phát triển các năng lực này. Khung pháp lý và chính sách thí điểm nên được sử dụng rộng rãi hơn để tăng tốc các thử nghiệm đổi mới sáng tạo hướng tới mở rộng quy mô còn nhiều tiềm năng.
Nâng cấp kỹ năng số, coi đó là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kỹ năng tổng thể của Việt Nam, bằng cách tăng cường giáo dục và đào tạo CNTT ở tất cả các cấp, đặc biệt là thông qua hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề (TVET).
Theo WB, việc cấp thiết cần làm là thực hiện các cải cách mang tính nền tảng cho hệ thống TVET ở Việt Nam, bao gồm cả các mô hình kinh doanh (ví dụ, tài trợ dựa trên kết quả hoạt động, quan hệ đối tác công tư), thiết kế chương trình giảng dạy (ví dụ, khoa học về dữ liệu và phân tích dữ liệu), liên kết hiệu quả, giáo dục trung cấp và đại học.
Cải cách hệ thống TVET có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với chương trình số hóa, mà còn đối với việc nâng cao năng lực của Việt Nam hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, tiến tới chiến lược tăng trưởng xanh, thúc đẩy tài chính toàn diện, và cải thiện trợ giúp xã hội cũng như sinh kế bền vững cho những người dễ bị tổn thương.
Ngoài ra, sẽ là sai lầm khi cho rằng thách thức về kỹ năng đối với Việt Nam chỉ liên quan đến sự thiếu hụt kỹ năng kỹ thuật. Bởi vì quá trình CĐS liên quan đến tốc độ thay đổi nhanh chóng trong các mô hình và hoạt động kinh doanh, việc phát triển các kỹ năng cũng cần bao gồm xây dựng khả năng thích ứng, tư duy phản biện và giải quyết vấn đề.
Một nỗ lực như vậy sẽ đòi hỏi phải chú trọng không chỉ vào khả năng đọc viết và tính toán cơ bản mà còn sự phát triển các kỹ năng hành vi xã hội xuyên suốt trong toàn bộ chu kỳ giáo dục tiểu học và trung học. Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy hỗ trợ tài năng trẻ trong nước và các công ty khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là những kênh hiệu quả, bao gồm cả việc hỗ trợ thông qua các chương trình hợp tác với khu vực tư nhân.
Thúc đẩy khả năng tiếp cận thông tin tốt hơn và xử lý hài hòa giữa an ninh thông tin và quyền riêng tư bằng cách cải cách khung pháp lý cho nền kinh tế số, đồng thời biến dữ liệu mở thành yếu tố trọng tâm trong nhiệm vụ của Chính phủ.
Chính phủ đang trong quá trình hoàn thiện dự thảo Nghị định về Bảo vệ dữ liệu cá nhân, điều quan trọng là phải cân bằng giữa quản lý dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư và tạo điều kiện cho các luồng dữ liệu kỹ thuật số. Điều này đặc biệt liên quan đến các yêu cầu về luồng dữ liệu xuyên biên giới và bản địa hóa dữ liệu.
Khả năng tiếp cận thông tin có thể được cải thiện thông qua tính liên thông và khả năng tương tác của dữ liệu. Theo WB, Nhà nước sẽ cần phải chuyển vai trò của mình từ nhà sản xuất dữ liệu sang cơ quan quản lý dữ liệu và tạo điều kiện cho một thị trường đang hình thành về dữ liệu (được ví như một nguồn "dầu mỏ mới"), vì sự phát triển của công nghệ đã tạo điều kiện cho các công ty thu thập, lưu trữ, chia sẻ và sử dụng một lượng lớn dữ liệu.
Thêm vào đó, việc tận dụng giá trị của dữ liệu để có thông tin tốt hơn sẽ đòi hỏi các ứng dụng công nghệ số như điện toán đám mây hoặc cảm biến, điều này sẽ làm gia tăng các mối quan tâm về an ninh và quyền riêng tư. Do đó, việc cân bằng các mối quan tâm về an ninh và lợi nhuận kinh tế của dữ liệu mở và đảm bảo bảo vệ quyền riêng tư sẽ là điều cần thiết để nền kinh tế số phát triển mạnh ở Việt Nam./.