Cần hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của công ty fintech tại Việt Nam
Kinh tế số - Ngày đăng : 07:15, 05/04/2022
Theo thống kê của McKinsey, mức độ sử dụng Fintech và ví điện tử tại Việt Nam cao hơn mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương (tăng từ 16% năm 2017 lên 56% vào năm 2021). Mặc dù Việt Nam có số lượng Công ty Fintech thấp hơn nhiều nước láng giềng ASEAN, nhưng con số này vẫn đang tăng lên hàng năm. Tuy nhiên, việc tồn tại những khoảng trống pháp lý hiện nay được xem là lý do quan trọng nhất khiến các công ty Fintech của Việt Nam chưa thể phát triển đúng tiềm năng.
Hiện trạng hoạt động của các công ty Fintech tại Việt Nam
Việc ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ như giao diện lập trình ứng dụng (Application Programming Interface-API), phân tích thông minh (Intelligence Analytics -IA), chuỗi khối (Blockchain), Dữ liệu lớn (Big Data)... đã làm thay đổi đáng kể dịch vụ ngân hàng cũng như các kênh phân phối qua kết nối giữa khách hàng với các tổ chức tài chính - ngân hàng tại Việt Nam; đồng thời cũng đặt các tổ chức tài chính - ngân hàng trước những cơ hội và thách thức mới. Fintech được sử dụng chung cho tất cả các công ty công nghệ (sử dụng Internet, điện thoại di động, công nghệ điện toán đám mây và các phần mềm mã nguồn mở...) nhằm mục đích cung cấp dịch vụ tài chính hoặc nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng và đầu tư.
Theo nghiên cứu của McKinsey, COVID-19 đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số (CĐS) toàn cầu lên 3-5 năm, thị trường Fintech thế giới dự kiến sẽ đạt 325,3 tỷ USD vào năm 2030 nhờ vào sự tăng trưởng của thanh toán số, đầu tư vào blockchain và sự bùng nổ theo cấp số nhân của các sàn thương mại điện tử (TMĐT). Đồng thời, thế giới cũng chứng kiến sự “sinh sôi nảy nở” của các start- up Fintech khi có khoảng 2000 công ty mới chỉ trong 2 tháng đầu năm 2021.
Theo đánh giá của các chuyên gia, dưới tác động của COVID-19, năm 2021 được xem là cú huých tạo đà cho quá trình số hoá toàn xã hội, tạo tiền đề cho sự vươn lên mạnh mẽ của lĩnh vực Fintech tại Việt Nam với việc chứng kiến sự phát triển vượt bậc của thị trường Việt Nam khi lượng người dùng dịch vụ tài chính số tăng cao, thúc đẩy sự phát triển đa dạng của Fintech. Nghiên cứu của Google cho chỉ ra rằng năm 2021 cũng là năm nhảy vọt của thị trường Fintech Việt Nam khi nền kinh tế Internet đạt giá trị 21 tỷ USD, xếp hạng 70 trên thế giới và đứng ở vị trí 14/50 khu vực châu Á.
Những năm gần đây, cùng với Singapore và Indonesia, lĩnh vực Fintech Việt Nam đã thể hiện được tiềm năng to lớn khi đóng góp vào thị phần chung khu vực Đông Nam Á. Thị trường Fintech Việt đang ngày càng đa dạng với nhiều ngành nghề như ngân hàng số (digital bank), ví điện tử (E-wallet), mua trước trả sau (BNPL), cho vay ngang hàng (P2P Lending)... nhờ vào mức tăng trưởng của số lượng các start-up Fintech mới, đạt mốc 215% trong giai đoạn từ 2015 - 2020. Tính đến hết tháng 9/2021, đã có 188 Công ty Fintech đang hoạt động tại Việt Nam.
Cụ thể, có 39 công ty Fintech hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thanh toán, trong đó, 5 ví điện tử lớn nhất là MoMo, Payoo, Moca, Zalo Pay và Vietel Pay. Với hơn 4 triệu người tiêu dùng, toàn hệ thống xử lý lên tới 214,6 triệu món giao dịch với số tiền trên 91.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, lĩnh vực cho vay ngang hàng (P2P Lending) có hơn 40 công ty hoạt động cung cấp sản phẩm cho vay nhanh. Các công ty cung ứng giải pháp Fintech khác phát triển các giải pháp để hỗ trợ hoạt động của các ngân hàng mà không trực tiếp cung ứng dịch vụ tới khách hàng sử dụng cuối cùng. Lĩnh vực Fintech còn thu hút sự quan tâm đặc biệt của các công ty, doanh nghiệp (DN) công nghệ lớn tại Việt Nam như Viettel, VNPT, FPT... có các hoạt động trực tiếp và gián tiếp như đầu tư hình thành các công ty cung ứng giải pháp Fintech, thành lập các quỹ đầu tư, vườn ươm hỗ trợ DN khởi nghiệp Fintech.
Fintech vừa trở thành các đối thủ cạnh tranh trực tiếp, vừa là đối tác hợp tác chặt chẽ đối với các định chế tài chính, ngân hàng truyền thống. Loại hình này mang đến những vấn đề và thách thức đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa ngân hàng và Fintech, cũng như tạo ra mức độ cạnh tranh thích hợp cho sự phát triển của thị trường.
Việt Nam có nhiều lợi thế cho các DN Fintech phát triển khi mà quy mô dân số là hơn 98,5 triệu người (số liệu tính đến hết năm 2021), trong đó dân số thành thị là 36,57 triệu người (37,1%); dân số nông thôn là 61,94 triệu (62,9%); nam 49,1 triệu người (49,8%) và nữ là 49,41 triệu người (50,2%). Tỷ lệ tiếp cận Internet tại Việt Nam năm 2021 là khoảng 72,5 triệu người dùng và dự báo đến năm 2025 là 82,25 triệu người dùng theo thống kê của Statista (Bảng 1).
Thống kê của Cục Viễn thông (Bộ TT&TT) cho thấy đến hết năm 2021 tỷ lệ thuê bao băng rộng cố định đạt 19,32 triệu; thuê bao băng rộng di động đạt 71,2 triệu; tổng số thuê bao di động đạt 122,66 triệu, trong đó có gần 72 triệu thuê bao di động có sử dụng dữ liệu.
Theo thống kê từ Merchant Machine vào năm 2021, Việt Nam xếp thứ hai trên toàn thế giới với 69% người dân chưa tiếp cận được dịch vụ tài chính, chưa có tài khoản ngân hàng. Có tới 26% giá trị giao dịch bằng tiền mặt trong khi tỉ lệ phổ cập Internet của người dân Việt Nam lên tới 66%.
Nếu so sánh với các nước như Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, Hà Lan, Đan Mạch thì tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt tại các quốc gia này chỉ từ 0% - 2%. Đáng chú ý, 100% người dân các quốc gia kể tên trên đều được tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ tài chính, ngân hàng. Khi đại dịch COVID-19 diễn ra, việc thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt để tránh tiếp xúc càng trở nên cấp bách, cần được ưu tiên phát triển.
Theo phân tích từ Global Finance, chính việc không được tiếp cận dịch vụ tài chính làm suy yếu chất lượng cuộc sống của người dân, ngăn cản họ đầu tư vào tương lai và kìm hãm sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Việc được tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng là yếu tố quan trọng để người dân thoát nghèo. Đó cũng là lý do tại sao 7 trong số 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững do Liên Hợp Quốc thúc đẩy coi đó là yếu tố cần thiết để cải thiện tình trạng của những người bị thiệt thòi nhất.
Theo đánh giá của các chuyên gia, dù tiềm năng nhưng thị trường Fintech tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua để tại ra bước phát triển đột phá trong tương lai. Trong đó thách thức đầu tiên mà thị trường Fintech đang phải đối mặt đến từ chính sự gia nhập của các ngân hàng thương mại đang trong quy trình số hoá, các ngân hàng số cần tạo ra nhiều dấu ấn hơn để nắm thế dẫn đầu.
Tiếp theo, thị trường Fintech Việt Nam đang phát triển tương đối đơn lẻ với sự thống trị của lĩnh vực thanh toán chiếm 31%, dẫn đến Việt Nam chưa thật sự sở hữu những công ty Fintech tầm quy mô lớn. Khi nhu cầu khách hàng đang ngày một nâng cao và đòi hỏi những trải nghiệm tích hợp thì các công ty Fintech cần tìm cách thiết lập hệ sinh thái số để đưa ra nhiều dịch vụ tài chính tổng hợp, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và sinh lời nhiều nhất có thể.
Nhận diện những rủi ro của các Fintech tại Việt Nam hiện nay
Dù có nhiều tiềm năng, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia về lĩnh vực này, Fintech cũng có nhiều loạt rủi ro có thể gây ra cho thị trường tài chính như:
(i) Tính chất xuyên biên giới của các Bigtech về công nghệ như Google, Amazon, Facebook, Apple (xem bảng 2) hay việc xoá nhoà ranh giới về ngành nghề, TMĐT kết hợp thanh toán và cho vay tiêu dùng;
(ii) CácFintech có thể gây ra tiềm ẩn rủi ro lớn về bất ổn tài chính như việc sự sụp đổ hàng loạt công ty Fintech cho vay ngang hàng tại Trung Quốc đã đe dọa thị trường tài chính, khiến Chính phủ nước này phải quản lý khắt khe hơn với các Tập đoàn muốn mở rộng thị trường (Alipay- Ant Group, We Chat Pay -Tencent...). Tháng 3/2021, Trung Quốc công khai kế hoạch “trị” các công ty nền tảng (platform) tích lũy dữ liệu để tạo thế độc quyền và nuốt chửng các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn. Trung Quốc phạt Alibaba 2,8 tỷ USD vì lạm dụng vị thế thống trị thị trường. Hàng chục công ty Internet lớn khác cũng phải dành một tháng để điều chỉnh các hành vi phản cạnh tranh;
(iii) Các Fintech gây rủi ro trực diện nhất đối với người tiêu dùng tài chính là mất dữ liệu, thông tin người dùng;
(iv) Fintech cũng gây rủi ro cho nhà đầu tư và chính các chủ Fintech khi bỏ vốn nhưng sản phẩm không khẳng định tên tuổi trên thị trường;
(v) Các Fintech gây ra sự đáng quan ngại lớn về mặt pháp lý, phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố do tất cả giao dịch đều thực hiện trên thế giới mạng dẫn tới khó kiểm soát.
Một số ví dụ sau đây tại Việt Nam thời gian qua cho thấy những rủi ro của các Fintech khi hoạt động:
Case study 1: Các ứng dụng (app) Fintech có huy động vốn trá hình hay không và việc bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư là như thế nào?
Hoạt động cho vay nhanh một mặt hỗ trợ khách hàng có thêm các khoản vay tín chấp ngắn hạn, phù hợp với điều kiện tiêu dùng. Mặt khác, hoạt động này còn thu hút một lượng nhà đầu tư bỏ tiền thông qua các app trung gian và lấy lãi từ 15 - 18%/năm. Nhất là trong giai đoạn COVID-19 khó khăn với toàn nền kinh tế, thì một kênh gửi tiền có lãi suất như trên là vô cùng hấp dẫn.
Song, ngoại trừ những yếu tố có lợi cho nhà đầu tư và người vay tiền, thì bên đầu tư cũng có những rủi ro nhất định khi tham gia vào những sân chơi này. Ví dụ ứng dụng F (công ty F) được giới thiệu đây chỉ là ứng dụng kết nối nhà đầu tư với các kênh tài chính, các kênh này đầu tư, sinh lời và chuyển lợi nhuận cho khách hàng. Cách thức hoạt động là người dùng chỉ cần nạp từ 50.000 đồng trở lên thông qua app F với lợi nhuận từ 5-17% một năm.
Tài sản của người dùng sẽ được chuyển tới công ty đi vay thông qua công ty F theo Hợp đồng quản lý danh mục đầu tư. Tuy nhiên, theo dữ liệu kết quả kinh doanh, năm 2020 công ty F báo lỗ sau thuế 21 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ lỗ 417 tỷ đồng. So với mức lỗ luỹ kế 26,6 tỷ đồng vào thời điểm cuối năm 2020, có thể thấy F không chỉ thua lỗ trong năm 2020 và 2019 mà điều này còn diễn ra từ trước đó. Điều này cũng dấy lên những lo ngại khi một DN thua lỗ, thì lấy gì ra bảo đảm lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Case study 2: Fintech phát hành trái phiếu huy động vốn
Công ty CP Kinh doanh F88 được thành lập năm 2016 là đơn vị vận hành chuỗi cầm đồ F88, cho vay thế chấp đa dạng các loại tài sản như cầm đồ ôtô, xe máy, điện thoại, laptop... Trong giai đoạn từ 2016-2020, DN đã tăng dần quy mô vốn điều lệ từ 54,5 tỷ đồng lên 407 tỷ đồng (tính đến tháng 7/2020). Cuối tháng 6/2021, F88 đã phát hành thành công 100 tỷ đồng trái phiếu. Đây là lần thứ 7 trong năm 2021, DN này huy động thành công qua kênh trái phiếu riêng lẻ, nâng tổng giá trị huy động lên mức 700 tỷ đồng.
Được biết, tất cả các đợt phát hành tại F88 đều là các trái phiếu không chuyển đổi và không có tài sản đảm bảo, lãi suất neo ở mức 12% - 13%/năm. Tháng 8/2021, F88 tiếp tục phát hành trái phiếu trị giá 400 tỷ đồng với lãi suất từ 11,5 - 12%/năm. Trong đó, F88 sẽ phát hành 100 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 12 tháng có lãi suất 11,5%/năm và 300 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 18 tháng có lãi suất 12%/năm.
Về tình hình kinh doanh, năm 2020, F88 lãi sau thuế chỉ đạt 44,8 tỷ đồng. Trước đó, năm 2019, DN này báo lãi sau thuế đạt 16,6 tỷ đồng, chỉ hoàn thành với 20% kế hoạch lợi nhuận cả năm2019 đã đề ra. Đáng lưu ý là dù tăng trưởng lợi nhuận, nhưng F88 lại gặp vấn đề về dòng tiền khi dòng tiền kinh doanh âm nhiều năm liên tiếp.
Cụ thể, năm 2016 âm 41 tỷ đồng, sang năm 2017 âm 91 tỷ đồng, năm 2018 âm 52 tỷ đồng và năm 2019 âm tới 265 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu của F88 đến cuối năm 2020 là 434 tỷ đồng, trong đó riêng dư nợ trái phiếu gấp gần 2 lần vốn chủ. Về hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu của F88, năm 2020, chỉ số này đã tăng lên 2,31 lần từ mức 1,41 lần năm 2019, chủ yếu do tăng dư nợ trái phiếu. Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu là hai nguồn vốn cơ bản để tài trợ vốn cho hoạt động của một DN. Về nguyên tắc, hệ số này càng lớn thì khả năng gặp khó khăn trong việc trả nợ hoặc phá sản của DN càng lớn.
Theo đánh giá của các chuyên gia thuộc Bộ Tài chính, cùng với xu hướng dịch chuyển vốn huy động từ kênh tín dụng ngân hàng sang kênh phát hành trái phiếu, trên thị trường trái phiếu DN vẫn còn những rủi ro tiềm ẩn cho bản thân DN, nhà đầu tư và thị trường. Cụ thể, về phía DN phát hành trái phiếu DN, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn và khả năng trả nợ.
Tuy nhiên, trường hợp DN phát hành khối lượng lớn trái phiếu, lãi suất cao, nhưng sử dụng vốn không hiệu quả hoặc tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) gặp khó khăn, hoặc lĩnh vực hoạt động gặp khó khăn, dẫn đến việc không hoàn trả được gốc và lãi trái phiếu cho nhà đầu tư sẽ gây bất ổn cho thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường tài chính nói chung.
Trên cơ sở đó, đối với các DN phát hành, việc phát hành trái phiếu phải gắn với dòng tiền và tính khả thi của phương án SXKD, năng lực tài chính của DN, đảm bảo khả năng trả các khoản nợ đến hạn, trong đó có trả nợ lãi, gốc trái phiếu.
Ngoài ra, khi phát hành trái phiếu, DN cần phải tuân thủ quy định của pháp luật, công bố công khai thông tin cho nhà đầu tư về tình hình tài chính, phương án SXKD, điều kiện, điều khoản của trái phiếu, các cam kết kèm theo, sử dụng vốn đúng mục đích nêu trong phương án phát hành.
Về phía nhà đầu tư mua trái phiếu, pháp luật đã quy định nhà đầu tư tự đánh giá rủi ro và tự chịu trách nhiệm về việc mua trái phiếu DN riêng lẻ. Theo đó, pháp luật quy định chỉ nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là đối tượng được mua và giao dịch trái phiếu DN riêng lẻ để bảo vệ các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ, không có kinh nghiệm, thiếu khả năng phân tích, đánh giá các rủi ro khi mua.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư cần hết sức lưu ý là lãi suất cao sẽ đi kèm với rủi ro cao, do đó phải hết sức thận trọng đánh giá kỹ về các rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu. Mặt khác, nhà đầu tư cần yêu cầu DN phát hành trái phiếu, các tổ chức môi giới cung cấp đầy đủ các thông tin gồm trái phiếu do DN nào phát hành, mục đích phát hành, có tài sản đảm bảo hay không có tài sản đảm bảo, kỳ hạn phát hành và phương thức trả nợ gốc, lãi và đặc biệt là tình hình tài chính của DN phát hành trái phiếu.
Cùng với đó, nhà đầu tư đặc biệt lưu ý không mua trái phiếu thông qua chào mời của các tổ chức cung cấp dịch vụ như công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại khi chưa tìm hiểu kỹ về tình hình tài chính của DN phát hành và các điều kiện, điều khoản của trái phiếu.
Case study 3: Những rủi ro cho người vay từ các app cho vay trá hình
Lợi dụng sự bùng nổ của Fintech, trên thị trường tài chính còn xuất hiện nhiều app trá hình, không có trụ sở, không có người chịu trách nhiệm pháp lý, cho vay tín chấp nhanh chóng, lãi suất cắt cổ, hoặc đòi hỏi những điều kiện vô lý, thậm chí là lừa đảo người vay. Theo đó, khi người vay tiền qua app online trá hình (ví dụ CG Credit) muốn vay 50 triệu đồng, nhưng đã nộp cho các đối tượng lừa đảo số tiền hơn 200 triệu đồng làm phí bảo lãnh, bảo đảm khoản vay. Sau đó mọi thông tin đều bặt vô âm tín, cơ quan điều tra cũng khó vào cuộc vì không có thông tin đối tượng lừa đảo cụ thể.
Tại các diễn đàn, hội nhóm trên mạng xã hội, việc này đang xảy ra khá nóng, với nhiều bị hại nhưng do số tiền bị lừa thường nhỏ và các bị hại không muốn rắc rối về vấn đề khiếu nại, khiếu kiện nên rất khó tập hợp các bị hại để tiến hành các hoạt động điều tra, khởi tố, xét xử.
Bên cạnh đó, nhiều tổ chức, cá nhân cả từ nước ngoài đã lợi dụng khoảng trống của pháp lý để tranh thủ lũng loạn thị trường trong những năm gần đây (2018-2021) với việc trá hình dưới vỏ bọc cho vay ngang hàng (P2P Lending) để làm tín dụng đen phi pháp: cho vay nặng lãi và thực hiện khủng bố tinh thần người vay để đòi nợ dưới mọi hình thức (gọi điện, nhắn tin, nhắn tin qua MXH, gọi điện khủng bố người vay với người thân, bạn bè, đồng nghiệp, cơ quan/tổ chức/doanh nghiệp nơi người vay làm việc).
Liên tiếp nhiều trường hợp như vậy tạo ra hình ảnh xấu đối với người dùng, xã hội và cả các cơ quan quản lý nhà nước, vô tình đã làm ảnh hưởng tiêu cực tới các DN đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực Fintech đang nỗ lực gây dựng và phát triển thị trường. Thậm chí bị đánh đồng cho vay online là tín dụng đen, là cho vay nặng lãi.
Một số thủ đoạn biến tướng của thủ đoạn này đã bị điều tra và khởi tố. Ví dụ: Cuối tháng 10/2021, Công an quận Nam Từ Liêm qua điều tra đã làm rõ các đối tượng yêu cầu khách vay phải có tài sản thế chấp là ảnh chân dung, chứng minh nhân dân, ảnh giao diện trên Facebook cá nhân. Đặc biệt, các đối tượng yêu cầu khách vay phải “thế chấp” các hình ảnh, video riêng tư nhạy cảm, mang tính chất khiêu dâm.
Mục đích sử dụng của các đối tượng này là để khống chế, phòng khi con nợ trốn sẽ gây sức ép, gửi cho người thân, đăng lên mạng xã hội, tạo áp lực để con nợ phải trả tiền. Lực lượng chức năng xác định, từ đầu tháng 5, vợ chồng Vân Anh đã cho chị N.T.N vay tiền 7 lần với tổng số tiền 163 triệu đồng, lãi suất 10.000 - 20.000 đồng/triệu mỗi ngày (khoảng 365-730%/năm).
Tổng số tiền thu lợi bất chính từ khoản vay này là hơn 131 triệu đồng. Mở rộng điều tra, lực lượng chức năng phát hiện thông qua tài khoản cá nhân trên trang web mecash.vn, vợ chồng Vân Anh đã cho gần 1.000 người vay lãi với tổng số tiền lên đến hơn 5 tỷ đồng. Tổng số tiền thu lợi bất chính từ hoạt động này là hơn 1,3 tỷ đồng. Do đó, Công an quận Nam Từ Liêm, TP.Hà Nội đã có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Nguyễn Thị Vân Anh; Bùi Ngọc Thủy; Khương Thị Tuyến để điều tra về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.
Ngoài ra đối tượng Nguyễn Thị Vân Anh còn bị khởi tố thêm tội danh “Cưỡng đoạt tài sản”. Theo đánh giá của Công an quận Nam Từ Liêm thì đây là thủ đoạn phạm tội mới, lần đầu xuất hiện trên địa bàn. Nạn nhân là những người cần tiền nhưng không có tài sản để thế chấp.
Case study 4: Cờ bạc online lợi dụng đơn vị trung gian thanh toán để trục lợi.
Cờ bạc online nở rộ thời gian gần đây một phần đến từ việc nộp tiền quá dễ dàng với việc người chơi/đánh bạc không chỉ chuyển qua thẻ cào điện thoại như trước, mà còn công khai qua các ví điện tử, tiền điện tử, tài khoản ngân hàng với số tiền ngày càng lớn. Các hình thức nạp tiền, thanh toán trên sòng bạc không những không bị giới hạn, mà trở nên dễ dàng hơn trước với việc thực hiện công khai qua các ví điện tử, tiền điện tử, tài khoản ngân hàng. Đặc biệt, các đối tượng sử dụng hình thức chuyển tiền bằng tiền kỹ thuật số nên một lượng tiền lớn trong nước có thể được “rửa” trái phép để tuồn ra nước ngoài.
Trong một số vụ án đánh bạc trực tuyến bị phát hiện có liên quan trang đánh bạc Rikvip, cơ quan chức năng nhận định các đơn vị trung gian thanh toán cũng được hưởng lợi nhờ cung cấp dịch vụ thanh toán cho sòng bạc Rikvip.
Cụ thể, tại vụ án của Phan Sào Nam, tiền nạp từ thẻ viễn thông và thẻ game là 9.296 tỷ đồng (chiếm 97%); tiền từ các ngân hàng là 168 tỷ đồng (chiếm 1,75%); tiền từ các công ty trung gian thanh toán hơn 200 tỷ đồng. Trong đó, các doanh nghiệp viễn thông hưởng lợi khoảng 1.402 tỷ đồng (tương đương 16% tổng giá trị thẻ nạp); các công ty trung gian thanh toán khác hưởng lợi khoảng 732 tỷ đồng.
Đại diện nhiều công ty trung gian thanh toán cho rằng, đối với ví điện tử, số tiền giao dịch giới hạn 10 triệu đồng/ ngày và 100 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, những tài khoản phục vụ cho mục đích cờ bạc online, cá độ... thường chia nhỏ số tiền giao dịch để tránh sự chú ý. Thậm chí, đối tượng còn thuê người lập tài khoản, nhờ hộ ví điện tử để chuyển tiền. Do đó về bản chất, việc giao dịch vẫn được thực hiện đúng quy định.
Với những ví giao dịch lớn, biến động thường xuyên, công ty sẽ đưa vào diện nghi ngờ, giám sát. Trong bối cảnh giao dịch không dùng tiền mặt ngày càng trở thành xu thế, việc các ví điện tử, ngân hàng bị lợi dụng khó tránh khỏi. Đây là một hạn chế trong việc phát triển các ví điện tử hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia, dù các đơn vị trung gian thanh toán không có nghĩa vụ và không kiểm soát mục đích sử dụng của khách hàng, nhưng không vì thế mà buông lỏng việc kiểm tra, giám sát. Các đơn vị phải có trách nhiệm trong việc phát hiện, ngăn chặn kịp thời các giao dịch, tài khoản bất thường. Việc mở tài khoản cũng cần được xác minh kỹ càng, không thể cho đua nhau mở.
Trong trường hợp, các đơn vị trung gian hợp tác cung cấp dịch vụ cho các sòng bạc và được hưởng lợi từ việc này, cơ quan chức năng cần truy cứu trách nhiệm. Đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết, việc phòng ngừa, ngăn chặn giao dịch những hàng hóa, dịch vụ bất hợp pháp, như cờ bạc online là trách nhiệm nhiều bên. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm thu thập, xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ, bất thường để phân tích, đánh giá rủi ro, trong đó có rủi ro lạm dụng ví điện tử, thẻ ngân hàng phục vụ hoạt động cờ bạc để gửi Bộ Công an điều tra, xử lý.
Về mặt xử lý hành vi vi phạm pháp luật, nếu có đủ căn cứ chứng minh, các ví điện tử có dấu hiệu “tiếp tay” dù biết rõ đây là sòng bạc trái phép thì có thể sẽ bị truy tố về tội “Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” (điểm a, b, c Khoản 2 và Khoản 3 Điều 322, Bộ Luật Hình sự năm 2015) với mức phạt tù từ 05 đến 10 năm nếu: (i) Có tính chất chuyên nghiệp; (ii) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên; (iii) Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Ngoài ra, nếu phát hiện các nhà cung cấp dịch vụ ví điện tử, cổng thanh toán trực tuyến có dấu hiệu hưởng lợi kinh tế từ các sòng bạc online thì đây sẽ bị coi là số tiền thu lời bất chính, nguồn gốc tiền do đánh bạc mà có cần áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 để truy nộp ngân sách nhà nước.
Về xử phạt vi phạm hành chính thì theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đánh bạc như mua số lô, số đề bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng - 500.000 đồng.
Đối với một số hành vi đánh bạc khác người chơi thì bị phạt từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Ngoài ra, các tang vật, phương tiện phục vụ và tiền do hành vi đánh bạc trái phép kể trên mà có sẽ bị tịch thu. Đối với người nước ngoài tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình phạt trục xuất.
Tính cấp bách phải hoàn thiện khung pháp lý quản lý Fintech tại Việt Nam
Sự xuất hiện và phát triển với tốc độ nhanh chóng của Fintech đã khiến cho các cơ quan quản lý tài chính của các quốc gia phải đối mặt với những thách thức và khó khăn trong công tác quản lý, giám sát nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố (Anti-Money Laundering and Counter Financing of Terrorism-AML/CFT), rủi ro liên quan đến an ninh, an toàn, bảo mật thông tin, sử dụng trái phép thông tin cá nhân...
Nhiệm vụ đặt ra với các cơ quan quản lý tài chính trên thế giới là bảo đảm đồng thời mục tiêu hỗ trợ thúc đẩy đối mới sáng tạo lĩnh vực ngân hàng trong khi vẫn phải duy trì sự ổn định, an toàn của thị trường tài chính và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Các quốc gia khu vực và trên thế giới đã có cách tiếp cận chủ động trong việc hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các công ty cung ứng giải pháp Fintech, coi việc ứng dụng công nghệ trong hoạt động tài chính là cực kỳ quan trọng nhằm tạo lợi thế so sánh của nền kinh tế trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0). Cơ chế thử nghiệm (sandbox) là một trong những công cụ và cách tiếp cận chính sách phổ biến nhất được các quốc gia trên thế giới áp dụng để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực Fintech thông quan việc cho phép thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi không gian và thời gian được xác định cụ thể.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 6/9/2021 thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng (Sandbox) nhằm hiện thực hoá chủ trương phát triển “Chính phủ số và nền Kinh tế số” trong kỷ nguyên mới của cuộc CMCN4.0.
Theo đó cơ chế thử nghiệm Fintech là cơ chế pháp lý được thiết lập bởi Chính phủ trong đó cho phép các tổ chức tín dụng, công ty cung ứng giải pháp Fintech và các tổ chức đổi mới sáng tạo khác được thử nghiệm trực tiếp các sản phẩm, dịch vụ Fintech trong một môi trường được kiểm soát và giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý có liên quan.
Hiện Dự thảo Nghị định này đang được lấy ý kiến góp ý công khai, tập trung vào nhóm đối tượng điều chỉnh là các ngân hàng, các công ty Fintech/công ty cung ứng giải pháp Fintech hợp tác với ngân hàng; và các công ty Fintech/cung ứng giải pháp Fintech độc lập. Các nội dung cơ bản của cơ chế thử nghiệm sandbox tập trung vào các nhóm chính sách sau đây.
Thứ nhất, mục tiêu của cơ chế thử nghiệm là nhằm hiện thực hóa đề án “Hỗ trợ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (QĐ 844/QĐ-TTg và QĐ 999/QD- TTg); thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và hiện đại hóa lĩnh vực hoạt động ngân hàng qua đó thúc đẩy mục tiêu phổ cập tài chính cho người dân; tạo lập môi trường thử nghiệm nhằm hoàn thiện và phát triển các giải pháp Fintech, phù hợp với nhu cầu thị trường và khuôn khổ pháp lý; hạn chế rủi ro xảy ra cho khách hàng khi tham gia sử dụng các dịch vụ Fintech chưa được cấp phép chính thức.
Thứ hai, phạm vi lĩnh vực Fintech được tham gia thử nghiệm gồm: thanh toán, tín dụng, cho vay ngang hàng (P2P Lending), hỗ trợ định danh khách hàng (e-KYC), giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API), các giải pháp ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo (như Blockchain), các dịch vụ khác hỗ trợ hoạt động ngân hàng (như chấm điểm tín dụng, tiết kiệm, huy động vốn...). Hiện chỉ có hoạt động Fintech trong lĩnh vực trung gian thanh toán ngân hàng được điều chỉnh (Luật NHNN 2010, Nghị định 1010/2010/NĐ-CP; NĐ 80/2016/NĐ-CP), các lĩnh vực hoạt động Fintech còn lại chưa được điều chỉnh trong bất cứ văn bản nào.
Thứ ba, các nhóm tiêu chí cơ bản để thẩm định và xét duyệt tổ chức xin tham gia cơ chế thử nghiệm. Theo đó, các đối tượng tham gia thử nghiệm phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí sau:
(i) là giải pháp mà hoàn toàn chưa có hoặc một phần chưa có quy định pháp lý điều chỉnh;
(ii) là giải pháp Fintech sáng tạo lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam hoặc giải pháp Fintech được ứng dụng cho dịch vụ mới, có tính sáng tạo cao góp phần đem lại lợi ích cho người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam, đặc biệt là các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy mục tiêu mở rộng phổ cập tài chính;
(iii) là giải pháp được thiết kế quản lý rủi ro tốt, không có hoặc có ít khả năng gây ra tác động xấu tới các tổ chức tài chính nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung; có phương án xử lý, khắc phục các rủi ro xảy ra trong quá trình thử nghiệm;
(iv) là giải pháp đã được các công ty Fintech/công ty cung ứng giải pháp Fintech hoặc TCTD thực hiện các biện pháp đánh giá phù hợp và chính xác chức năng, công dụng và tính hữu ích;
(v) là giải pháp có tính khả thi và tính thương mại cao, có kế hoạch cung ứng ra thị trường cụ thể sau khi hoàn thành quá trình thử nghiệm;
(vi) là giải pháp không tiềm ẩn rủi ro gây bất ổn đến thị trường tài chính-ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Các đối tượng tham gia thử nghiệm giải pháp có hồ sơ đang ký với Đơn đăng ký tham gia, Giấy phép thành lập/GCN ĐKDN, văn bản mô tả cơ cấu chức năng quản lý và điều hành đối với giải pháp Fintech đăng ký thử nghiệm; đề án mô tả giải pháp Fintech đăng ký tham gia.
Thứ tư, phạm vi thử nghiệm: Thời gian thử nghiệm các giải pháp Fintech là 1-2 năm tùy từng giải pháp và lĩnh vực cụ thể, tính từ thời điểm được Thủ tương Chính phủ chấp nhận thử nghiệm. Phạm vi thử nghiệm giải pháp bao gồm đồng thời 1 trong 3 yếu tố sau: về địa lý, về hạn mức giao dịch và về số lượng khách hàng tham gia sử dụng dịch vụ.
Thứ năm, quy định về giám sát rủi ro, tổng kết đánh giá và xác nhận. Việc dừng thử nghiệm khi NHNN trình Thủ tướng Chính phủ có văn bản thu hồi GCN đăng ký tham gia cơ chế thử nghiệm đã cấp như: hết thời hạn thực hiện thử nghiệm; vi phạm nghiêm trọng quy định của cơ chế thử nghiệm và các quy định pháp luật có liên quan; xuất hiện rủi ro theo đánh giá của cơ quan quản lý là nghiêm trọng, có khả năng gây ảnh hưởng và thiệt hại cho khách hàng; các sự cố kỹ thuật không thể khắc phục; tổ chức tự nguyện chấm dứt hoạt động thử nghiệm hoặc chấm dứt hoạt động...
Việc gia hạn thời gian thử nghiệm không quá 1 năm/lần gia hạn dựa trên kết quả thử nghiệm và tình hình thực tế. Tổ chức cung ứng giải pháp Fintech sau khi kết thúc thử nghiệm sẽ được đánh giá giải pháp hiệu quả, có tác động tích cực tới sự đổi mới sáng tạo và phát triển của hệ thống tài chính-ngân hàng, kiểm soát tốt rủi ro... sẽ được xem xét cho triển khai chính thức ra thị trường.
Ngân hàng Nhà nước là đầu mối tiếp nhận, thẩm định hồ sơ, tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ cấp GCN tham gia, dừng tham gia thử nghiệm. Các Bộ (Tài chính, Công an, KH&CN, TT&TT...) có cơ chế phối hợp trong quá trình quản lý lĩnh vực Fintech và cơ chế thử nghiệm.
Mặc dù thị trường Fintech tại Việt Nam mới phát triển và còn nhiều thách thức nhưng là một thị trường đầy tiềm năng để lĩnh vực Fintech phát triển. Fintech nói chung và các doanh nghiệp Fintech/cung ứng giải pháp Fintech nói riêng phải được coi là trung tâm của đổi mới, sáng tạo; phát triển DN công nghiệp Việt Nam, tập trung vào công nghệ cao. Bài học thành công từ quá trình triển khai thí điểm cơ chế sandbox với dịch vụ Mobile Money (Quyết định 316/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán hàng hóa, dịch vụ -Mobile Money) với việc Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép (vào tháng 11/2021) cho 3 đơn vị đăng ký triển khai hoạt động Mobile Money là: Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội Viettel; Tập đoàn VNPT; Tổng công ty Viễn thông MobiFone là ví dụ tốt cho cơ chế thử nghiệm với lĩnh vực Fintech tại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Tờ trình Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động CNTC (Fintech) trong hoạt độngngân hàng. Chi tiết xem tại http://vibonline.com.vn/du_thao/du-thao-nghi-dinh-ve- co-che-thu-nghiem-co-kiem-soat-fintech
2. Dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động CNTC (Fintech) trong hoạt động ngân hàng.Chi tiết xem tại http://vibonline.com.vn/du_thao/du-thao-nghi-dinh-ve- co-che-thu-nghiem-co-kiem-soat-fintech
3. Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021-2025 của Chính phủ (QĐ 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021)
4. Website: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam www.sbv.gov.vn; Cục Viễn thông www.vnta.gov.vn; BộTT&TT www.mic.gov.vn; VIBonline-VCCI www.vibonline. com.vn;
5. Các bài viết, số liệu, nhận định về Fintech trên các báo: VietnamNET, Lao Động, Dân Trí, Tuổi Trẻ, Diễn Đàn Doanh Nghiệp, Tạp chí Ngân hàng; Tạp chí Tài chính....
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 3 tháng 3/2022)