Giải pháp hiện đại hoá hạ tầng viễn thông để đột phá phát triển kinh tế số
Diễn đàn - Ngày đăng : 16:49, 09/03/2022
Hạ tầng viễn thông - CNTT đã chuyển mình trở thành hạ tầng số
Tại hội thảoWorld Mobile Broadband & ICTnăm 2022 được tổ chức ngày 9/3, Thứ trưởng Bộ TT&TT Phạm Đức Long cho biết hai năm qua, đại dịch COVID-19 đã tác động mạnh mẽ và gây ảnh hưởng lớn tới Việt Nam nói riêng cũng như toàn cầu nói chung. Trong bối cảnh đó, công cuộc chuyển đổi số (CĐS) đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam và cả thế giới. Đặc biệt, tại Việt Nam, CĐS đang diễn trên mọi ngành, mọi lĩnh vực và có thể nói công cuộc CĐS Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng tốc.
Đại hội lần thứ 13 của Đảng cũng đề ra nhiệm vụ phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, trong đó kinh tế số sẽ chiếm 20% GDP vào năm 2025. Theo Thứ trưởng, đây là mục tiêu hết sức thách thức đối với Việt Nam để nhằm hiện thực hóa khát vọng Việt Nam, đưa Việt Nam thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
Muốn phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, Thứ trưởng nhấn mạnh phải phát triển hạ tầng số. Hạ tầng số phải đi trước một bước, và hạ tầng viễn thông hôm nay với sự phát triển, hội tụ giữa viễn thông - CNTT đã chuyển mình trở thành hạ tầng số. Đây là sự phát triển mới và Việt Nam đang đồng hành cùng thế giới trong việc xác định nội hàm và xây dựng hạ tầng số.
Cũng theo Thứ trưởng, Bộ TT&TT xác định hạ tầng số bao gồm hạ tầng viễn thông và hạ tầng dữ liệu. Hiện nay, Bộ TT&TT đưa ra mục tiêu phát triển hạ tầng số là phải làm chủ hạ tầng băng rộng, bao gồm hạ tầng thiết bị 5G cũng như làm chủ các công nghệ, nền tảng số theo hướng Make in Viet Nam. Bộ TT&TT đã báo cáo Chính phủ đưa ra mục tiêu Việt Nam phải lọt vào top 30 các nước có hạ tầng số phát triển vào trước năm 2025.
"Đây là một nhiệm vụ thách thức và để thực hiện mục tiêu này, Bộ TT&TT đã xây dựng trình Chính phủ chiến lược phát triển hạ tầng số giai đoạn 2021 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có những mục tiêu thách thức để xây dựng hạ tầng số hiện đại, đáp ứng nhu cầu CĐS và theo mục tiêu của chính phủ là không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình CĐS".
Thứ trưởng cũng cho biết nói về CĐS, phát triển hạ tầng số, nền tảng số thì việc cần làm là phải có thể chế số. Bộ TT&TT mong nhận được các ý kiến của các chuyên gia đóng góp cho thể chế số và cách làm số - cách làm đột phá để hướng tới doanh thu của hạ tầng số chiếm 1% GDP vào năm 2025, mỗi người dân có 1 smartphone, hộ gia đình có 1 đường cáp quang và triển khai nhanh 35 nền tảng số quốc gia một cách nhanh chóng, tiết kiệm nguồn lực xã hội, thời gian.
Theo phân tích của ông Đoàn Quang Hoan, Tổng thư ký Hội Vô tuyến điện tử Việt Nam (REV), dịch vụ viễn thông di động nói chung và băng rộng vô tuyến nói riêng đang đóng góp vai trò quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay cứ 10 năm thì công nghệ vô tuyến băng rộng thay đổi thế hệ 1 lần và thế hệ sau thì có đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội lớn hơn với những cách thức mới mẻ hơn mà thế hệ trước không thể có được. Sự cải tiến, sự đổi mới thì liên tục diễn ra ngay trong cùng một thế hệ trên cả mạng lưới và dịch vụ.
Chú trọng phát triển hạ tầng băng rộng cố định, di động và trung tâm dữ liệu (TTDL)
Với định hướng CĐS quốc gia cũng như hạ tầng viễn thông sẽ được chuyển đổi thành hạ tầng số, ông Nguyễn Phong Nhã, Phó Cục trưởng phụ trách điều hành Cục Viễn thông - Bộ TT&TT cho biết, đáp ứng cho yêu cầu của chính phủ số, kinh tế số, xã hội số thì hạ tầng viễn thông sẽ bao gồm chú trọng phát triển hạ tầng băng rộng cố định (BRCĐ), hạ tầng băng rộng di động (BRDĐ) và đặc biệt là hạ tầng của các TTDL.
Tính đến tháng 2/2022, Việt Nam có 19,6 triệu thuê bao BRCĐ đến tận hộ gia đình (FTTH) và mục tiêu đến năm 2025, 100% hộ gia đình có đường cáp quang với tốc độ 200 Mbit/s. Theo đó, ông Nhã cho biết đây là thách thức lớn khi tốc độ hiện nay đạt 68 Mbit/s và để đạt mục tiêu vào năm 2025, Việt Nam phải có kế hoạch cụ thể đối với việc phát triển hạ tầng cáp quang tới hộ gia đình.
Để nâng chất lượng cáp quang đến hộ gia đình, ông Nhã cho rằng vai trò của nhà mạng rất quan trọng, đặc biệt trong việc cung cấp các gói cước, ứng dụng có yêu cầu tốc độ cao; đầu cuối modem, WiFi của các hộ gia đình cũng cần được nhà mạng quan tâm, nâng cấp.
Phát triển BRDĐ trong năm 2021 đã tạo được ấn tượng khi thực hiện chương trình "Sóng và máy tính cho em", gần 1400 điểm lõm sóng đã được phủ sóng chủ yếu bằng mạng 4G. Với chương trình viễn thông công ích được phê duyệt vào tháng 12/2021, ông Nhã cho biết năm 2022, BRDĐ sẽ được ưu tiên triển khai đến vùng sâu và vùng xa và các thôn bản hiện chưa được phủ sóng di động.
Cũng trong năm 2022, ông Nhã cho rằng việc bổ sung băng tần 2,3 GHz cho các nhà mạng trong việc phát triển hạ tầng 4G cùng với việc cấp phép mạng 5G thì chắc chắn tốc độ di động của Việt Nam sẽ được nâng lên và vùng phủ sóng cũng được cải thiện. Mục tiêu vào năm 2025, 100% dân số sẽ được phủ sóng mạng 4G và mạng 2G sẽ được dừng cung cấp dịch vụ. Trong năm 2022, mạng 5G sẽ được bảo đảm cung cấp tốc độ trên 100Mbit/s và sẽ phủ sóng ở khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu trường học, các khu nghiên cứu, các tỉnh, thành phố có nhu cầu tốc độ cao và tiến tới năm 2025 cơ bản phủ sóng các địa phương lớn và đến năm 2030, 100% dân số sẽ được phủ sóng di động với công nghệ 5G và 100% người dùng trưởng thành sẽ có, sử dụng smartphone.
Để phát triển hạ tầng số trong thời gian tới, ông Nhã chia sẻ một số chính sách lớn như huy động nguồn lực từ các DN tư nhân vào phát triển hạ tầng. Các DN nhà nước tập trung nguồn lực vào các địa bàn chưa có hạ tầng mạng cáp quang, nâng cao chất lượng đầu cuối. "Đây chính là việc mong muốn phổ cập dịch vụ tới vùng sâu xa, sử dụng công nghệ mới để đưa cáp quang tới hộ gia đình, thôn bản, đưa vùng phủ sóng công nghệ mới tới thông bản".
Chính sách tiếp theo là triển khai mạng di động 5G, ưu tiên sử dụng chung hạ tầng vô tuyến và roaming. Bộ TT&TT cũng xem xét dừng sử dụng công nghệ 2G, tiến tới 3G, để thúc đẩy sử dụng smartphone, giảm dần lệ thuộc vào mạng 2G cũng như thúc đẩy tiêu dùng dữ liệu "data", giảm bớt sử dụng thoại, nhắn tin truyền thống. Bộ TT&TT cũng thúc đẩy thị trường bán buôn truy nhập băng rộng, ưu tiên đám mây đầu tiên (cloud first).
Với những mục tiêu như vậy, ông Nhã đề nghị các DN di động có lộ trình, kế hoạch để không đầu tư vào mạng truyền thống, chuyển sang các mạng di động thế hệ sau, triển khai dịch vụ VoLTE, sử dụng công nghệ mới để tắt được mạng 2G, giảm chi phí vận hành khai thác, tốn điện năng của các mạng 2G.
Phát triển hạ tầng số cần nhà nước hỗ trợ
Để phát triển hạ tầng số hiện đại, ông Trần Thành Kiên, Giám đốc sản phẩm dịch vụ hạ tầng số, Tổng công ty VNPT-Vinaphonecho biết hạ tầng viễn thông hiện nay về mức cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của một hạ tầng kết nối, trong đó có những định hướng phát triển nền tảng 5G, tiến tới 6G.
Tuy nhiên, ông Kiên cho biết thực tế trong quá trình triển khai chúng ta mong muốn đặt ra yêu cầu rất cao về tiêu chuẩn kết nối, đáp ứng được những mục tiêu về tốc độ, băng thông, độ phủ. Tuy độ phủ có thể nói là rộng nhưng vẫn có điểm nghẽn về băng thông dẫn tới kết nối chậm. Để đạt được kỳ vọng cao của các cơ quan Nhà nước, cần phải hỗ trợ thêm cho DN về cơ chế để phát phát triển băng thông tốt hơn, nhất là cho các nhà mạng và cho các DN triển khai ứng dụng trên các nhà mạng để phát triển ứng dụng tốt hơn.
Trong khi đó, ông Nguyễn Phú An, FPT Telecom cho biết phát triển hạ tầng số không có cách nào khác là phải đầu tư công nghệ mới, nâng cấp hạ tầng viễn thông hiện tại. FPT Telecom đang đang triển khai công nghệ thông minh mới, ảo hóa cho hạ tầng cáp quang. Các nhà mạng khác cũng đang thực hiện việc này.
FPT Telecom cũng triển khai công nghệ WiFi 6, thậm chí tiến tới WiFi 7, công nghệ kết nối cáp quang như GPON… để đáp ứng băng thông cho phát triển kinh tế số, xã hội số, trong đó có giảm độ trễ (latency) để đảm bảo dịch vụ kết nối và cấp phát cho mạng 5G. TTDL cũng được triển khai công nghệ mới để đảm bảo chất lượng dịch vụ trên hạ tầng viễn thông, đáp ứng được các yêu cầu trong tương lai về CĐS và thích ứng công nghệ 5G, 6G.
Theo bà Trần Thúy Ngọc, Phó Tổng giám đốc, Deloitte Việt Nam, tập trung vào băng thông rộng di động sẽ giúp hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế -xã hội. Các Chính phủ trên toàn cầu tin rằng sự tăng trưởng của việc sử dụng băng thông rộng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bà Ngọc cho biết tác động được đo lường bằng % tăng trưởng GDP từ 1% tăng trưởng trong thâm nhập băng thông rộng. Ví dụ, ở một số nước 1% thâm nhập băng thông rộng có thể dẫn đến 0,023% tăng trưởng GDP.
Theo Cục Viễn thông, trong năm 2021, Việt Nam có 70,9 triệu thuê bao BRDĐ (chiếm 57,23% tổng số thuê bao di động), tăng hơn 4% so với năm 2020; có 18,79 triệu thuê bao Internet BRCĐ, tăng 14,59%... Doanh thu trung bình (ARPU) của thuê bao BRCĐ trong 10 tháng năm 2021 chỉ đạt khoảng 137.000 đồng (tương đương 6 USD), giảm 8% so với mức doanh thu 149.000đ của năm 2020 (149.000 đồng).
Năm 2022, Cục Viễn thông cũng đặt mục tiêu thực hiện việc phủ sóng mạng băng rộng di động tốc độ trên 1Gb đến các khu công nghiệp, khu công nghệ cao; 100% người trưởng thành có điện thoại thông minh; 75% hộ gia đình có FTTH (Internet cáp quang); 85% thuê bao băng rộng di động/100 dân./.