Sử dụng điện toán đám mây ở Việt Nam: Đánh giá từ trong và ngoài nước
Ý kiến chuyên gia - Ngày đăng : 07:15, 10/02/2022
Trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử (CPĐT), hướng tới Chính phủ số, việc đánh giá được mức độ sẵn sàng cho việc sử dụng ĐTĐM giúp các cơ quan hoạch định chính sách có được cái nhìn tổng thể và xác thực nhằm đưa ra các kế hoạch hành động hiệu quả hơn, thúc đẩy tiến trình ứng dụng rộng rãi ĐTĐM ở Việt Nam. Vậy hiện nay, mức độ sẵn sàng của Việt Nam đang ở đâu, và cần làm gì tiếp theo để cải thiện chỉ số quan trọng này?
Tiết kiệm chi phí với ĐTĐM
Theo nghiên cứu của Trường Kinh doanh Harvard, các nhà cung cấp dịch vụ đám mây siêu quy mô giúp các DN "trẻ" và các công ty khởi nghiệp cắt giảm 15-27% chi phí khi mới bắt đầu kinh doanh, khuyến khích đổi mới và thu hút nhiều tài trợ hơn từ các nhà đầu tư mạo hiểm.
Nghiên cứu khẳng định"sự ra đời của các dịch vụ ĐTĐM được coi là một thời điểm quyết định giúp cắt giảm đáng kể chi phí ban đầu để bắt đầu các công ty khởi nghiệp dựa trên Internet và web".
Đối với khu vực công, theo báo cáo của Cơ quan giải trình trách nhiệm chính phủ Hoa Kỳ (GAO), tác động từ yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước (CQNN) sử dụng ĐTĐM đã tạo ra những hiệu quả kinh tế đáng ghi nhận khi tiết kiệm được 291 triệu USD. Điển hình như Cơ quan dịch vụ công (DVC) Hoa Kỳ (GSA), sau khi chuyển cổng thông tin USA.gov sang một máy chủ lưu trữ trên đám mây, thời gian để GSA nâng cấp trang web giảm từ 9 tháng xuống còn 1 ngày; thời gian ngừng hoạt động hàng tháng được cải thiện từ hai giờ lên mức khả dụng 99,9%. Từ đó, cơ quan này đã tiết kiệm được 1,7 triệu USD cho các dịch vụ lưu trữ.
Có thể thấy, với những lợi thế về cắt giảm chi phí, đơn giản và tự động hóa quy trình quản lý dựa trên sức mạnh tính toán của công nghệ, ĐTĐM đã và đang trở thành hạ tầng số quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Chính sách sử dụng ĐTĐM trong khu vực công ở Việt Nam và các kết quả đánh giá
Tại Việt Nam, từ tháng 6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 749/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình chuyển đổi số (CĐS) quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030". Chương trình này đặt ra nhiệm vụ và giải pháp phát triển Chính phủ số; trong đó có yêu cầu tái cấu trúc hạ tầng CNTT của các bộ, ngành, địa phương, chuyển đổi hạ tầng CNTT thành hạ tầng số ứng dụng công nghệ ĐTĐM phục vụ kết nối, quản lý các nguồn lực, dữ liệu của CQNN cũng như cung cấp DVC.
Bên cạnh chiến lược CĐS, cùng chiến lược xây dựng Chính phủ số đã được ban hành và có hiệu lực, mới đây, Bộ TT&TT đã công bố một số dự thảo các văn bản pháp luật trong đó có điều chỉnh công nghệ ĐTĐM. Ví dụ như dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN; theo đó, ĐTĐM là phương án kỹ thuật đầu tiên được xem xét khi lựa chọn các phương án phát triển hạ tầng, ứng dụng, dịch vụ Chính phủ số. Tương tự, dự thảo Quy hoạch hạ tầng CNTT và truyền thông thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, cũng đề cập đến ĐTĐM như là một trong những hạ tầng quan trọng, phấn đấu để tích hợp, ứng dụng rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế số, xã hội số.
Trên thực tiễn, các cơ quan Chính phủ Việt Nam hiện cũng đã bắt đầu sử dụng hoặc có kế hoạch sử dụng ĐTĐM cho các dự án xây dựng/nâng cấp nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) hay nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp Bộ, cấp tỉnh (LGSP). Đến ngày 30/10/2020, 100% bộ ngành đã có nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp Bộ (LGSP). Theo đó, LGSP là nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ, tỉnh chứa các dịch vụ dùng chung để chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi một bộ, ngành, địa phương và đóng vai trò trung gian phục vụ kết nối các hệ thống thông tin trong nội bộ với các hệ thống bên ngoài.
Mô hình kết nối của LGSP theo kiến trúc CPĐT của cơ quan cấp Bộ chủ quản hoặc kiến trúc Chính quyền điện tử của cơ quan cấp tỉnh chủ quản phù hợp với Khung kiến trúc CPĐT Việt Nam.
Xét về mức độ hiệu quả, việc quản lý hệ thống thông tin của các CQNN vẫn còn nhiều vướng mắc bởi hiện tượng "cát cứ", "khu trú" dữ liệu tại địa phương và mức độ sẵn sàng sử dụng ĐTĐM. Thực tế này có thể được cải thiện nếu hạ tầng số trên đám mây được triển khai xây dựng và đánh giá một cách mạnh mẽ, chính xác và triệt để.
Từ cuối năm 2020, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng và công bố Bộ chỉ số đánh giá CĐS (DTI) cấp Bộ, cấp tỉnh và cấp quốc gia với mục tiêu đánh giá kết quả thực hiện CĐS hàng năm của các bộ, ngành, địa phương và của cả nước trong quá trình thực hiện Chương trình CĐS quốc gia [1].
Trong số các chỉ số này, một số tiêu chí đánh giá có liên quan trực tiếp tới việc sử dụng ĐTĐM, ví dụ như tiêu chí về hạ tầng kỹ thuật CNTT để triển khai theo mô hình ĐTĐM, chỉ số về sự sẵn sàng của dữ liệu, kết nối và chia sẻ dữ liệu, chỉ số về an toàn, an ninh mạng,… Bộ chỉ số đã phần nào thể hiện được nỗ lực và quyết tâm của Việt Nam trong việc xây dựng hạ tầng ĐTĐM nói riêng và hiện thực hóa quá trình CĐS quốc gia nói chung.
Đánh giá quốc tế về mức độ sẵn sàng để sử dụng ĐTĐM ở Việt Nam
Dưới góc độ đánh giá quốc tế, trong những năm gần đây, Hiệp hội ĐTĐM châu Á (Asia Cloud Computing Associationd - ACCA) và Liên minh Phần mềm (The Software Aliiance - BSA) đã phát hành bộ chỉ số đánh giá mức độ sẵn sàng của một số quốc gia đối với công nghệ ĐTĐM. Hai bộ chỉ số này đều tập trung đánh giá hai chỉ tiêu quan trọng là cơ sở hạ tầng và khung chính sách pháp luật đối với vấn đề tiếp nhận và triển khai công nghệ này. Điểm đáng lưu ý là cả hai bộ chỉ số đều xếp hạng Việt Nam là quốc gia có mức độ sẵn sàng sử dụng ĐTĐM thấp nhất.
Theo báo cáo về "Chỉ số sẵn sàng ứng dụng ĐTĐM 2020" của ACCA, nhìn chung, mức độ sẵn sàng của các quốc gia trong khu vực APAC, trong đó có Việt Nam, đang tăng lên. Tuy nhiên, tốc độ của tiến trình này đang bị đình trệ do nhiều quốc gia phải tập trung giải quyết vấn đề phục hồi kinh tế sau khủng hoảng từ đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, các thị trường mới nổi trong APAC có nguy cơ mất khả năng phục hồi kinh tế từ COVID-19 nếu không tận dụng các công nghệ "đi tắt đón đầu" đầy hứa hẹn.
Riêng đối với Việt Nam, điểm đánh giá mức độ sẵn sàng để sử dụng ĐTĐM là 46.2/100, đứng thứ 14 trên tổng số 14 quốc gia được nêu trong đánh giá. Thậm chí, so với 6 nước không thuộc nhóm APAC, điểm đánh giá của Việt Nam cũng là thấp nhất. Điều cần chú ý là thứ hạng này của Việt Nam vẫn duy trì kể từ năm 2016 đến nay.
Đánh giá của ACCA dựa trên 4 nhóm chỉ số gồm: (1) Cơ sở hạ tầng ĐTĐM với 03 tiêu chí là "Kết nối quốc tế", "Chất lượng băng thông rộng", và "Lưới điện, Chính sách Xanh và Tính bền vững"; (2) Đảm bảo an ninh đám mây với 02 tiêu chí là "Rủi ro trung tâm dữ liệu" và "An ninh mạng"; (3) Các quy định pháp luật có liên quan với các tiêu chí "Quyền riêng tư", "Môi trường pháp lý quốc gia" và "Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ"; và (4) Quản trị ĐTĐM, đánh giá trên 2 tiêu chí là "mức độ thuận lợi cho việc kinh doanh" và vấn đề "tự do thông tin".
Với Việt Nam, trong 10 tiêu chí được đánh giá, tiêu chí hệ thống quy định trong văn bản pháp quy có điểm số cao nhất (7,1) và quy định quyền riêng tư có số điểm thấp nhất (2,2). Tuy nhiên, khả năng kết nối quốc tế lại là tiêu chí được xếp hạng cao của Việt Nam (2.9/10 - đứng thứ 7). Với các tiêu chí khác, Việt Nam phần lớn thuộc nhóm 03 nước có thứ hạng thấp nhất. Dẫu vậy, các tiêu chí về chất lượng băng thông và năng lượng bền vững của Việt Nam đã có sự tăng điểm so với năm 2016 và 2018. Nhìn chung, có thể thấy vấn đề đáng quan tâm đối với Việt Nam khi ứng dụng công nghệ ĐTĐM là an toàn dữ liệu. Nói cách khác, cơ sở hạ tầng và chính sách pháp luật dù triển khai như thế nào cũng phải đảm bảo được an toàn dữ liệu và quyền riêng tư.
Không chỉ báo cáo của ACCA, đánh giá của BSA trong thẻ điểm ĐTĐM toàn cầu 2018 cũng thể hiện mức độ sẵn sàng của Việt Nam là chưa cao. Thẻ điểm này sử dụng phương pháp mới để phản ánh chính xác những chính sách giúp ĐTĐM đạt được sự tăng trưởng, trong đó chú trọng vào luật định của các quốc gia về bảo mật dữ liệu, an ninh cũng như hạ tầng băng thông. Các tiêu chí của thẻ điểm ĐTĐM gồm: Bảo mật dữ liệu, an ninh, tội phạm công nghệ cao, quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn và đồng bộ hóa quốc tế, thúc đẩy tự do thương mại (mỗi tiêu chí chiếm trọng số 12,5%), mức độ sẵn sàng CNTT và triển khai băng thông rộng (chiếm trọng số 25%).
Trong bảng xếp hạng này, Việt Nam xếp ở vị trí cuối cùng (36,4%) với trọng số không đều giữa các tiêu chí. Cụ thể, tiêu chí về mức độ sẵn sàng CNTT và triển khai băng thông rộng có tỉ trọng lớn nhất (8,6%) cho thấy Việt Nam có nền tảng cơ sở hạ tầng CNTT cũng như điều kiện về thị trường tương đối tốt để triển khai ĐTĐM. Tuy nhiên chính sách thúc đẩy thương mại tự do, bảo mật dữ liệu và an ninh của Việt Nam có mức điểm rất thấp. Trong đó, tiêu chí thúc đẩy thương mại tự do chỉ đạt 0,5% và an ninh chỉ đạt 1,0%, điều này gây cản trở đến việc phát triển ĐTĐM trên toàn quốc. Chẳng hạn, thương mại tự do chưa được thúc đẩy là yếu tố cản trở việc tiếp cận thị trường từ các nhà cung ứng nước ngoài trong khi DN trong nước chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu.
Thúc đẩy triển khai sử dụng ĐTĐM trong hành trình hiện thực hóa khát vọng CĐS của Việt Nam
Để hiện thực hóa những tiềm năng mà ĐTĐM đem lại và hạn chế những vấn đề còn tồn tại, Việt Nam cần tiếp tục có sự chuẩn bị kỹ lưỡng ở cả cấp độ chính sách - pháp luật và thực tiễn thi hành. Một số sự chuẩn bị cần thiết có thể kể đến như:
Thứ nhất, Việt Nam cần sớm ban hành Chiến lược dữ liệu quốc gia làm nền tảng xây dựng Chiến lược ĐTĐM chính phủ cũng như triển khai ứng dụng các công nghệ kĩ thuật số mới nhằm phản ứng nhanh với những thay đổi trên thế giới, tận dụng công nghệ để phát triển và CĐS. Dựa trên cơ sở chiến lược chung về dữ liệu, một kế hoạch hành động cụ thể cho việc dịch chuyển các dịch vụ số lên đám mây cần được xây dựng để tạo khung hành động thống nhất cho các bộ ngành, địa phương thực hiện.
Thứ hai, trong ngắn hạn, Việt Nam cần đánh giá các loại hình DVC trực tuyến, các cấu thành ưu tiên trong hệ thống dịch vụ đô thị thông minh để dịch chuyển lên đám mây dùng chung hoặc đám mây Chính phủ. Xác định thứ tự ưu tiên và lộ trình triển khai sẽ giúp tăng hiệu quả của đầu tư ngân sách cho dịch chuyển lên đám mây nhờ tiết kiệm chi phí đầu tư.
Thứ ba, về mặt cơ chế tài chính, hình thức đối tác công tư trong việc xây dựng hạ tầng đám mây là ưu tiên cần được cân nhắc, dựa trên các cơ sở như tính an toàn của công nghệ, tính hiệu quả, chi phí và giá thành. Cần có hướng dẫn cụ thể đối với CQNN khi sử dụng ĐTĐM trên cơ sở cân đối, phân bổ ngân sách, tránh đầu tư tràn lan, không trọng tâm dẫn đến không những không cắt giảm chi phí mà còn chồng chéo giữa công nghệ lưu trữ mới và cũ.
Thứ tư, hầu hết các nền kinh tế APAC đều đang xem xét làn sóng công nghệ thế hệ 4 sẽ mở ra một loạt cơ hội kinh doanh mới ví dụ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), mạng 5G. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Thậm chí, đây còn là cơ hội để Việt Nam "đi tắt đón đầu" trước các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số biện pháp hạn chế khiến dòng dữ liệu khó di chuyển tự do và an toàn, ví dụ như các yêu cầu về địa phương hóa dữ liệu.
Trong bối cảnh đó, các chính sách và quy định cho phép dòng chảy dữ liệu tự do và an toàn xuyên biên giới là điều cần thiết cho sự tăng trưởng và mở rộng của các DN và nền kinh tế số, cũng như phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19. Do vậy, cần có một chính sách cân bằng giữa việc bảo vệ thông tin cá nhân, quyền riêng tư với việc lưu chuyển thông tin xuyên biên giới.
[1] Bộ chỉ số này được triển khai khảo sát, thu thập thông tin, dữ liệu trực tuyến từ chính các bộ, cơ quan ở địa phương và các chuyên gia cũng như đại diện người dân và DN. Trong đó, DTI cấp bộ được đánh giá trực tiếp trên 07 tiêu chí gồm: Chuyển đổi nhận thức; Kiến tạo thể chế; Phát triển Hạ tầng và nền tảng số; Thông tin và Dữ liệu số; Hoạt động CĐS; An toàn, an ninh mạng; Đào tạo và phát triển nhân lực. Với DTI cấp tỉnh và cấp quốc gia, hai bộ chỉ số này lại được đánh giá trên 03 trụ cột là Chính quyền số, Kinh tế số và Xã hội số; với các tiêu chí tương tự DTI cấp bộ./.
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 1 tháng 1/2022)