Đẩy nhanh số hóa nền kinh tế để đảm bảo phát triển bền vững trong đại dịch
Kinh tế số - Ngày đăng : 05:49, 18/01/2022
Ngân hàng Thế giới mới đây đã dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng tốc trong năm 2022 với tăng trưởng GDP dự báo tăng lên 5,5% so với 2,6% năm 2021.
Tuy nhiên, WB cho rằng triển vọng này vẫn ẩn chứa nhiều rủi ro, đặc biệt là trước diễn biến chưa rõ ràng của đại dịch. Sự bùng phát của các biến thể mới có thể dẫn đến việc phải tái áp đặt các biện pháp giãn cách xã hội, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế. Đợt bùng phát dịch COVID-19 lần thứ 4 vừa qua từ tháng 4/2021 đã cho thấy những tác động mạnh mẽ của đại dịch đối với nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế giảm tới 6,17% trong quý 3 do tác động kép của các yếu tố cả ở trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, tỷ lệ tiêm chủng của Việt Nam hiện đã tăng cao hơn, vì vậy, Việt Nam có nhiều triển vọng chống dịch bệnh và tăng trưởng kinh tế tốt hơn trong năm 2022.
Đề xuất giải pháp ưu tiên số hóa nền kinh tế
Bằng cách xem xét những tác động của đại dịch đối với nền kinh tế trong nước và sự tăng tốc của các xu hướng toàn cầu, WB đã xác định 6 ưu tiên phát triển, một tập hợp con trong số các ưu tiên quan trọng khác, nhằm giúp Việt Nam hồi phục tốt hơn sau đại dịch COVID-19. Những ưu tiên này không chỉ yêu cầu phải đối phó với những rủi ro tăng cao, mà còn giúp nắm bắt cơ hội mới xuất hiện từ chuỗi giá trị toàn cầu đã thay đổi hoặc từ sự tăng tốc của chương trình tăng trưởng xanh và chuyển đổi số.
Đáng chú ý, WB cho rằng đẩy nhanh số hóa nền kinh tế là một trong số các ưu tiên mà Việt Nam cần chú trọng để đảm bảo phát triển bền vững trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
Theo đó, WB cho rằng các biện pháp giãn cách xã hội đã giúp giảm lây truyền virus COVID-19 và khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế không tiếp xúc. Trong 12 tháng qua, các công cụ số đã được Việt Nam đón nhận với tốc độ ngày càng nhanh. Các cuộc khảo sát tần suất cao của WB chỉ ra rằng, kể từ khi bắt đầu đại dịch, cứ mỗi ba doanh nghiệp (DN) thì có tới gần hai trong số đó, bất kể quy mô và vị trí, đã sử dụng các công cụ CNTT. Tỷ lệ sử dụng Internet cũng đang tăng lên - từ 52,5% năm 2017 lên khoảng 70% năm 2020 - với tỷ lệ thâm nhập thậm chí còn cao hơn trong nhóm dân số trẻ.
Thực tế, giãn cách xã hội đã khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế không tiếp xúc, không chỉ trong thương mại mà còn trong cung cấp dịch vụ cá nhân (học trực tuyến, khám bệnh trực tuyến), làm việc tại nhà, và giao dịch chính phủ. Tuy xu hướng này đã có từ trước đại dịch COVID-19, nó đã tăng tốc đáng kể trong năm qua. Điều này có thể được minh họa bằng việc thương mại trực tuyến trong 5 tháng cuối năm 2020 đã tăng nhanh tương đương với tăng trưởng của 5 năm trước đại dịch (Hình 1.5).
Người dân cũng đã tăng cường sử dụng mạng xã hội; ví dụ, người Mỹ dành trung bình 82 phút một ngày trên mạng xã hội trong năm 2020, tăng 7 phút so với 2019. Tất cả những thay đổi này đều có hậu quả rõ ràng về kinh tế và tài chính, và chúng cũng sẽ làm thay đổi sâu sắc cách mọi người sống, kinh doanh, giao tiếp, làm việc và học tập.
WB cho biết Việt Nam là thị trường thương mại điện tử (TMĐT) phát triển nhanh nhất ở Đông Á trong năm 2020 và số hộ gia đình mua sắm trực tuyến đã tăng 30% kể từ khi đại dịch bùng phát. Chính phủ cũng đã đẩy mạnh số hóa các dịch vụ của mình, dẫn đến số lượt truy cập hàng tháng vào cổng dịch vụ công quốc gia tăng từ 11.000 lượt vào tháng 1/2020 lên 125.000 lượt vào tháng 4/2021.
Việc triển khai chương trình căn cước công dân quốc gia đã được tiến hành tăng tốc trong nửa đầu năm 2021, trong khi trước đó gần một thập kỷ, chương trình này gần như luôn bị chậm trễ. Đến đầu tháng 7/2021, đã có hơn 50 triệu căn cước công dân số hóa đã được phát hành.
Chính phủ hiểu rõ rằng chuyển đổi số (CĐS) có thể giúp đất nước chuyển đổi từ nền kinh tế có thu nhập trung bình sang nền kinh tế có thu nhập cao. Công cuộc chuyển đổi kinh tế số của Việt Nam gặp nhiều thuận lợi, như cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc cơ bản tốt và mức độ thâm nhập của điện thoại di động và Internet đạt mức cao trong dân số, bao gồm cả những hộ gia đình nghèo nhất.
Hơn nữa, một số công ty CNTT hàng đầu thế giới cũng đã có mặt ở Việt Nam. Khu vực tư nhân đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy CĐS của nền kinh tế, cũng như việc khuyến khích và tài trợ cho đổi mới sáng tạo. Chính phủ có thể đẩy mạnh việc hợp lý hóa và tinh giản quy trình, thủ tục đăng ký, cấp phép DN công nghệ, đồng thời củng cố hệ sinh thái cho việc khởi nghiệp trong lĩnh vực số và tạo dựng môi trường thuận lợi để tài trợ cho các DN công nghệ.
Lực lượng lao động thiếu kỹ năng số
Đánh giá về triển vọng phát triển kinh tế số, các chuyên gia của WB cho rằng Việt Nam cần giải quyết những điểm yếu chính như năng lực đổi mới hạn chế và thiếu hụt kỹ năng số - đây là một phần của tình trạng thiếu hụt kỹ năng trên bình diện rộng ở Việt Nam.
WB cho rằng ngày nay, dù đã nhanh chóng áp dụng các công cụ CNTT, hầu hết các công ty không thể tối đa hóa lợi ích mong đợi vì họ vẫn tiếp tục sử dụng các công cụ đó chỉ để thực hiện các quy trình nghiệp vụ cơ bản như quản trị kinh doanh, kế toán, bán hàng và phương thức thanh toán. Chỉ các công ty lớn mới chứng tỏ được ít nhiều năng lực sử dụng các công cụ số cho các chức năng kinh doanh phức tạp hơn như lập kế hoạch sản xuất, quản lý chuỗi cung ứng, và chế tạo, vì họ có cả nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực để áp dụng các công cụ số này.
Hạn chế về nguồn cung nhân lực có kỹ năng số là một trong những vấn đề cấp bách cần giải quyết để phát triển kinh tế số. Theo khảo sát của WB, Việt Nam đang tụt hậu so với hầu hết các đối thủ cạnh tranh khi ước tính chỉ 40% lực lượng lao động có các kỹ năng kỹ thuật số cơ bản, trong khi nhu cầu về đối tượng nhân lực này rất lớn, với khoảng 2/3 số việc làm cần tay nghề trung bình và cao ở Việt Nam đều yêu cầu kỹ năng số.
Báo cáo toàn cảnh đổi mới sáng tạo (ĐMST) mở Việt Nam 2021 được BambuUP xây dựng và phát hành mới đây, dưới sự bảo trợ của Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo Quốc gia (NSSC), Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) cũng cho biết thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao đã được các công ty khởi nghiệp bình chọn là thách thức lớn thứ hai khi thực hiện các hoạt động ĐMST, với 47.1% lượt bình chọn.
Đơn cử như trong lĩnh vực y tế, một lĩnh vực được nhắc đến nhiều trong thời kỳ đại dịch, cùng với sự phát triển và ứng dụng CNTT, các mô hình chăm sóc sức khỏe (CSSK) thông minh đã xuất hiện.
CSSK thông minh dẫn đến nhu cầu đặc biệt về kỹ năng số trong tất cả các ngành nghề y tế. Trong khi đó, tình trạng thiếu hụt kỹ năng thực tế trong lĩnh vực CNTT và truyền thông (CNTT-TT) trở nên phổ biến do tốc độ đổi mới công nghệ và sự thiếu hụt nhân viên và doanh nhân có trình độ học vấn phù hợp. Trong các lĩnh vực CSSK, điều này đặc biệt làm chậm sự tiếp nhận các giải pháp kỹ thuật số. Trình độ kỹ thuật số thấp trong nhân viên y tế cũng là thách thức chính đối với sức khỏe thông minh.
Nghiên cứu về robot trong y tế cũng bắt đầu được quan tâm hơn tại Việt Nam. Robot hoạt động với độ chính xác cao, giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực, làm các công việc lặp lại nhàm chán và đặc biết hạn chế tiếp xúc cơ thể - tránh được sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm như COVID-19.
Tăng cường giáo dục và đào tạo CNTT qua hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề
Do xu hướng CĐS, những lao động thiếu kỹ năng đứng trước rủi ro bị mất việc làm. Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh rằng 20 - 30% công việc hiện có ở Việt Nam đang gặp rủi ro. Các DN sẽ thay thế lao động phổ thông bằng những công cụ số và nguồn nhân lực có kỹ năng số trong quá trình chuyển đổi của mình. Những tác động tiêu cực này đối với các công việc “có truyền thống dùng lao động không có kỹ năng” chỉ có thể được bù đắp bằng gia tăng lao động có kỹ năng và tăng tổng năng suất nhờ áp dụng các công nghệ CNTT mới của cả khu vực tư nhân và nhà nước, từ đó lại sẽ tạo ra một nhu cầu mới về lao động.
Theo khuyến nghị của WB, nâng cấp kỹ năng số, coi đó là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kỹ năng tổng thể của Việt Nam, bằng cách tăng cường giáo dục và đào tạo CNTT ở tất cả các cấp, đặc biệt là thông qua hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề. Việc cấp thiết cần làm là thực hiện các cải cách mang tính nền tảng cho hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề ở Việt Nam, bao gồm cả các mô hình kinh doanh, chẳng hạn như các mô hình tài trợ dựa trên kết quả hoạt động, quan hệ đối tác công tư, thiết kế chương trình giảng dạy như khoa học về dữ liệu và phân tích dữ liệu, liên kết hiệu quả, giáo dục trung cấp và đại học.
Cải cách hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với chương trình số hóa, mà còn đối với việc nâng cao năng lực của Việt Nam hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, tiến tới chiến lược tăng trưởng xanh, thúc đẩy tài chính toàn diện, và cải thiện trợ giúp xã hội cũng như sinh kế bền vững cho những người dễ bị tổn thương.
Ngoài ra, sẽ là sai lầm khi cho rằng thách thức về kỹ năng đối với Việt Nam chỉ liên quan đến sự thiếu hụt kỹ năng kỹ thuật. Bởi vì quá trình CĐS liên quan đến tốc độ thay đổi nhanh chóng trong các mô hình và hoạt động kinh doanh, việc phát triển các kỹ năng cũng cần bao gồm xây dựng khả năng thích ứng, tư duy phản biện và giải quyết vấn đề.
Một nỗ lực như vậy sẽ đòi hỏi phải chú trọng không chỉ vào khả năng đọc viết và tính toán cơ bản mà còn sự phát triển các kỹ năng hành vi xã hội xuyên suốt trong toàn bộ chu kỳ giáo dục tiểu học và trung học. Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy hỗ trợ tài năng trẻ trong nước và các công ty khởi nghiệp ĐMST là những kênh hiệu quả, bao gồm cả việc hỗ trợ thông qua các chương trình hợp tác với khu vực tư nhân./.