6 điều kiện để được hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam

Kinh tế số - Ngày đăng : 08:45, 16/10/2021

Hoạt động kinh doanh đa cấp ngay từ khi xuất hiện đã bị những đối tượng xấu lợi dụng để biến thành công cụ lừa đảo. Do đó, công tác quản lý đối với hoạt động này cũng là bài toán nan giải của cơ quan quản lý ở hâu hết các quốc gia trên thế giới.

Nghị định số 40/2018/NĐ - CP hiện nay được đánh giá là công cụ pháp lý để quản lý chặt chẽ và hiệu quả ngành bán hàng đa cấp so với giai đoạn trước đây. Theo đó, tổ chức cá nhân muốn kinh doanh theo phương thức đa cấp tại Việt Nam phải đủ 6 điều kiện sau:

1. Kinh doanh theo phương thức đa cấp tại Việt Nam là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phải đăng ký với Bộ Công thương và chịu sự giám sát, quản lý của Bộ Công thương, các Sở Công thương và các cơ quan chuyên ngành liên quan như thuế, y tế, công an… theo quy định pháp luật (Các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận theo quy định luôn được đăng công khai trên trang thông tin điện tử: vcca.gov.vn).

Hoạt động kinh doanh đa cấp không phép là trái pháp luật và có thể bị xử lý hình sự (Phạt tiền tới 5 tỷ đồng hoặc 5 năm tù giam theo quy định tại Điều 217a Bộ Luật hình sự).

6 điều kiện để được hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam - Ảnh 1.

Nghị định số 40/2018/NĐ-CP đã có nhiều quy định hướng hoạt động BHĐC đi vào đúng bản chất là một hình thức phân phối hàng hóa, không bị lợi dụng để thực hiện hoạt động huy động tài chính trái phép.

2. Kinh doanh theo phương thức đa cấp tại Việt Nam, hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp chỉ được thực hiện với đối tượng là hàng hóa. Tức là hoạt động bán hàng đa cấp (BHĐC). Mọi hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp với đối tượng không phải là hàng hóa đều bị cấm (Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, ví dụ như kinh doanh bảo hiểm).

3. Đăng ký hoạt động đối với tổ chức tham gia BHĐC tại Việt Nam (Được quy định chi tiết tại Điều 7 của Nghị định số 40/2018/NĐ-CP) cần lưu ý:

- Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp và thành viên chủ chốt của doanh nghiệp không được là doanh nghiệp và các thành viên chủ chốt của các đối tượng đã từng bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.

- Về mặt tài chính, ngoài điều kiện về vốn điều lệ là 10 tỷ đồng trở lên, doanh nghiệp cần đáp ứng mức ký quỹ tối thiểu cũng từ 10 tỷ đồng trở lên.

- Về mặt kỹ thuật, các doanh nghiệp tham gia BHĐC phải có hệ thống CNTT quản lý mạng lưới người tham gia BHĐC, trang thông tin điện tử để cung cấp thông tin về doanh nghiệp và hoạt động BHĐC của doanh nghiệp, hệ thống CNTT này phải được vận hành trên máy chủ đặt tại Việt Nam. Ngoài ra, các doanh nghiệp tham gia BHĐC phải có hệ thống thông tin liên lạc để tiếp nhận, giải quyết thắc mắc, khiếu nại của người tham gia BHĐC.

4. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát hoạt động BHĐC tại địa phương, sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động theo quy định, doanh nghiệp BHĐC cần tiến hành đăng ký và phải được Sở Công thương tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác nhận bằng văn bản để thực hiện hoạt động BHĐC tại địa phương đó.

Các chương trình hội nghị, hội thảo, đào tạo về BHĐC có sự tham dự của từ 30 người trở lên hoặc có sự tham dự của từ 10 người tham gia BHĐC trở lên, doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo tới Sở Công thương tối thiểu 15 ngày làm việc trước khi thực hiện.

5. Việc đào tạo cơ bản cho người tham gia BHĐC phải được đặc biệt chú trọng. Chương trình đào tạo cơ bản dành cho người tham gia BHĐC phải đảm bảo thời gia quy định. Công tác đào tạo cơ bản phải được thực hiện trước khi người tham gia BHĐC được cấp thẻ thành viên và phải do người được doanh nghiệp chỉ định là đào tạo viên giảng dạy. Doanh nghiệp sẽ cử người học tại cơ sở đào tạo có chương trình được công nhận. Chỉ những người hoàn thành bài kiểm tra và được Bộ Công thương cấp xác nhận kiến thức đào tạo kiến thức pháp luật về BHĐC mới được doanh nghiệp lựa chọn và chỉ định làm đào tạo viên.

6. Để bảo vệ người tham gia trước các hoạt động BHĐC bất chính, các quy định hiện nay cũng định hướng hoạt động BHĐC đi vào đúng bản chất là một hình thức phân phối hàng hóa, không bị lợi dụng để thực hiện hoạt động huy động tài chính trái phép như: Hạn chế doanh nghiệp cho phép người tham gia ký gửi hàng hóa, buộc các bên phải giao nhận hàng hóa sau khi thanh toán; Người tham gia BHĐC có quyền trả lại hàng hóa đã mua, bao gồm cả hàng hóa được mua theo chương trình khuyến mại, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận hàng; Doanh nghiệp BHĐC phải xuất hóa đơn theo từng giao dịch bán hàng cho từng người tham gia BHĐC của doanh nghiệp và khách hàng mua hàng trực tiếp từ doanh nghiệp: Doanh nghiệp BHĐC phải thanh toán cho người tham gia bằng hình thức chuyển khoản qua ngân hàng đối với tiền hoa hồng và tiền thưởng.

Có thể nói Nghị định số 40/2018/NĐ-CP đã có nhiều quy định hướng hoạt động BHĐC đi vào đúng bản chất là một hình thức phân phối hàng hóa, không bị lợi dụng để thực hiện hoạt động huy động tài chính trái phép. Nghị định này đã hoàn thiện những khoảng trống trong khuôn khổ pháp lý hiện hành, nâng cao tính minh bạch của hoạt động kinh doanh BHĐC cũng như tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này.

Trang Trang