Chính phủ số hướng tới giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển KT-XH
Chuyển đổi số - Ngày đăng : 13:31, 28/06/2021
Lần đầu tiên đưa ra nội hàm khái niệm chính phủ số
Việc phê duyệt Chiến lược phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030 có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh hiện nay. Đây lần đầu tiên Việt Nam ban hành một bản chiến lược để phát triển CPĐT và hướng tới một xu thế mới trong CĐS, đó là phát triển Chính phủ số.
Năm 2020, lần đầu tiên Báo cáo khảo sát xếp hạng mức độ phát triển CPĐT của Liên Hợp Quốc có chủ đề về Chính phủ số, đó là: "Chính phủ số trong một thập kỷ hành động vì sự phát triển bền vững".
Nhiều nước trên thế giới sớm nhận ra xu hướng và đã có hành động cụ thể chuyển dịch sang phát triển Chính phủ số bằng cách tuyên bố chiến lược, kế hoạch tổng thể phát triển của quốc gia mình, điển hình như Singapore (tháng 6/2018), Úc (tháng 12/2018), Thái Lan (tháng 10/2019), Nhật Bản (tháng 12/2019), Indonesia (tháng 02/2020), Malaysia (tháng 02/2016), Brunei (tháng 3/2015),…
Nội dung Chiến lược thể hiện các quan điểm đột phá trong tư duy, cách làm để phát triển Chính phủ số. Trong 06 quan điểm nêu trong Chiến lược, thì quan điểm đầu tiên cũng là quan điểm quan trọng nhất thể hiện tư tưởng xuyên suốt của toàn bộ nội dung Chiến lược đó là: "Phát triển Chính phủ số có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt CĐS quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quảnlý kinh tế - xã hội".
Chính phủ số bản chất là CPĐT, bổ sung những thay đổi về cách tiếp cận, cách triển khai mới nhờ vào sự phát triển của công nghệ số. Vì vậy, khi nói phát triển chínhphủ số chính là nói phát triển CPĐT, chính phủ số đã bao hàm CPĐT.
CPĐT, hiểu một cách đơn giản, là "bốn Không": có khả năng họp không gặp mặt, xử lý văn bản không giấy, giải quyết thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán không dùng tiền mặt.
Chính phủ số là CPĐT thêm "bốn Có": có toàn bộ hoàn động an toàn trên môi trường số; có khả năng cung cấp dịch vụ mới nhanh chóng; có khả năng sử dụng nguồn lực tối ưu và có khả năng kiến tạo phát triển, dẫn dắt CĐS quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.
Chiến lược xác định rõ 5 mục tiêu đến năm 2025. Thứ nhất là cung cấp dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội. Theo đó, cơ quan nhà nước (CQNN) cắt giảm, tái cấu trúc, đơn giản hóa, chuẩn hóa, thống nhất các thủ tục hành chính phục vụ xã hội trên phạm vi toàn quốc; cung cấp dịch vụ mới một cách chủ động, kịp thời đáp ứng nhu cầu của xãhội. Người dân, doanh nghiệp (DN) có thể sử dụng dịch vụ số theo nhu cầu cá thể hóa, theo suốt cuộc đời, khi cần, theo cách thuận tiện, trực tuyến hoặc trực tiếp, dễ dàng,đơn giản, nhanh chóng, không giấy tờ, không cần sự hiện diện nếu pháp luật không yêu cầu.
Thứ hai là huy động rộng rãi sự tham gia của xã hội, người dân, DN và các tổ chức khác có thể dễ dàng tham gia ý kiến đóng góp cho hoạt động của CQNN, phản ánh những vấn đề của xã hội xung quanh mình tới CQNN và nhận được ý kiến phản hồi về sự tham gia, kết quả tham gia của mình. DN có thể tham gia cung cấp dịch vụ công hoặc phát triển những dịch vụ mới, sáng tạo, giúp xã hội có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ công của CQNN. Nhà nước, người dân, DN và các tổ chức khác cùng tham gia phổ cập việc sử dụng dịch vụ công nói riêng, CĐS nói chung.
Thứ ba là vận hành tối ưu các hoạt động của CQNN: 100% CQNN cung cấp dịch vụ 24/7, sẵn sàng phục vụ trực tuyến bất cứ khi nào người dân và DN cần; 100% hoạt động chỉ đạo, điều hành và quản trị nội bộ của CQNN được thực hiện trên nền tảng quản trị tổng thể, thống nhất; 100% văn bản trao đổi giữa các CQNN được thực hiện dưới dạng điện tử, được ký số bởi chữ ký số chuyên dùng, trừ văn bản mật theo quy định của pháp luật,...
Thứ tư là giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể, mỗi người dân có danh tính số kèm theo QR code, tiến tới đều có điện thoại thông minh; mỗi hộ gia đình có địa chỉ số, có khả năng truy cập Internet cáp quang băng rộng; mỗi người dân có hồ sơ sốvề sức khỏe cá nhân; mỗi học sinh, sinh viên có hồ sơ số về việc học tập cá nhân; mỗi người nông dân có khả năng truy cập, khai thác, sử dụng hiệu quả nền tảng dữ liệu số về nông nghiệp, nền tảng truy xuất nguồn gốc.
Thứ năm là thay đổi đột phá xếp hạng quốc gia. Theo đó, xếp hạng quốc gia của Việt Nam về phát triển CPĐT, Chính phủ số theo đánh giá của Liên Hợp Quốc có sự thay đổi đột phá. Cụ thể, Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số tổng thể; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số tham gia điện tử; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số dữ liệu mở.
Hành động nhanh, đột phá bằng nền tảng và định hướng mở
Theo Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn MạnhHùng, điều quan trọng nhất của Chính phủ số làcung cấp dịch vụ số cho người dân, toàn bộ bộ máy công quyền chuyển sang hoạt động trên môi trường số. Sử dụng dữ liệu, công nghệ số để thiết kế lại vận hành của Chính phủ nhằm giúp cho việc ra quyết định và quản lý xã hội hiệu quả hơn, dẫn dắt CĐS quốc gia.
Chính phủ số có sứ mệnh dẫn dắt CĐS quốc gia, do vậy phải đi trước, đi đầu và tạo không gian phát triển cho kinh tế số, xã hội số.
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng
Để đạt được các mục tiêu đặt ra, Chiến lược đặt ra 6 nhiệm vụ trọng tâm quốc gia gồm: (1) Hoàn thiện môi trường pháp lý, (2) Phát triển hạ tầng số, (3) Phát triển các nền tảng số và hệ thống quy mô quốc gia, (4) Phát triển dữ liệu số quốc gia, (5) Phát triển các ứng dụng, dịch vụ quốc gia và (6) Bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia.
Trong đó, nền tảng số được xác định là giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển chính phủ số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nền tảng được tạo ra bởi những doanh nghiệp công nghệ số xuất sắc, cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng ngay dưới dạng dịch vụ thay vì phải tự đầu tư, tự vận hành. Cùng với đó là định hướng mở để người dân, DN và tổ chức khác tham gia một cách phù hợp vào hoạt động của CQNN, tương tác với CQNN để cùng tăng cường minh bạch, nâng cao chất lượng dịch vụ, cùng giải quyết vấn đề và cùng tạo ra giá trị cho xã hội.
Cũng theo bản Chiến lược, trước đây, thông thường,phát triển CPĐT đặt ra mục tiêu phục vụ người dân, DN và xã hội tốt hơn. Giờ đây còn đặt mục tiêu trang bị công cụ làm việc để cán bộ, công chức, viên chức có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, đó là trợ lý ảo hay nhữngnền tảng làm việc, cộng tác trên môi trường số.
Dẫn dắt CĐS quốc gia, giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội
Trao đổi với PV Tạp chí TT&TT, ôngNguyễn Phú Tiến, Cục phó Cục Tin học hóa (Bộ TT&TT) cho biết: Một trong những điểm khác biệt trong Chiến lược phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025 đó là Chính phủ số không chỉ tập trung CĐS trong hoạt động nội bộ của CQNN, mà còn dẫn dắt CĐS nói chung, giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội.
Theo ông Tiến, để thực hiện nội dung trên, ở quy mô quốc gia; trước hết phải tạo dựng được hạ tầng kết nối, giúp người dân chuyển hoạt động của mình lên môi trường số, hình thành công dân số. Đó là phát triển mạng di động thế hệ mới 4G, 5G; phát triển mạng cáp quang kết nối đến mỗi hộ gia đình.
Tiếp theo, đó là phải phát triển các nền tảng số quy mô quốc gia để cung cấp các dịch vụ cho người dân, DN trong công cuộc CĐS. Ví dụ như: Nền tảng trao đổi định danh và xác thực điện tử quốc gia; Nền tảng ứng dụng trên thiết bị di động cho phép người dân và DN sử dụng mọi dịch vụ, tiện ích trong Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số mọi lúc, mọi nơi.
Phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu các bộ, ngành, địa phương cũng là yếu tố cốt lõi để cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao và cung cấp, mở dữ liệu để triển khai các dịch vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở các nền tảng trên cũng phải triển khai các ứng dụng, dịch vụ quy mô quốc gia và tại các bộ, ngành, địa phương, tiêu biểu như: Cổng Dịch vụ công quốc gia; Cổng dữ liệu quốc gia; các ứng dụng, dịch vụ chuyên ngành như ngành y tế, giáo dục, giao thông, tài chính, ngân hàng, nông nghiệp, du lịch,…
Để triển khai các nhiệm vụ, trong Chiến lược phát triển CPĐT hướng tới Chính phủ số cũng xác định các giải pháp quan trọng, tiêu biểu như: Tổ chức, bộ máy, mạnglưới để triển khai Chính phủ số; Tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng số cho mọi đối tượng; Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức; Hợp tác giữa cơ quan nhà nước và DN; Nghiên cứu, phát triển, làm chủ các công nghệ lõi; Chuẩn hóa, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ.
Chia sẻ thêm về những lợi thế khi phát triển Chính phủ số tại Việt Nam, ông Nguyễn Phú Tiến cho biết: Về thuận lợi, trước hết là chúng ta có thể kế thừa, khai thác các kếtquả triển khai CPĐT giai đoạn vừa qua như hạ tầng truyền dẫn phục vụ hoạt động nội bộ của các cơ quan nhà nước và cung cấp dịch vụ công trực tuyến đã được hình thành, các cơ sở dữ liệu quy mô quốc gia quan trọng dần được phát triển, nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia đã được triển khai,...
Ngoài ra, theo ông Tiến, một số đặc thù của ViệtNam cũng là những thuận lợi. Cụ thể, Việt Nam có Đảng lãnh đạo, Chính quyền tập trung, thống nhất chỉ đạo sẽ giúp các nhiệm vụ phát triển Chính phủ số được triển khai đồng bộ, từ Trung ương đến địa phương, toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc. Dân số đông, trẻ, thích ứng nhanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận các dịch vụ Chính phủ số. Thị trường trong nước đủ lớn sẽ tạo điều kiện cho các DN công nghệ số phát triển, làm chủ các công nghệ lõi trong phát triển Chính phủ số. DN công nghệ số đông sẵn sàng tham gia phát triển các dịch vụ Chính phủ số. Ngoài ra, hạ tầng số có mức độ sẵn sàng cao sẽ tạo điều kiện tiên quyết cho việc phát triển và cung cấp dịch vụ số của các CQNN./.
Một số kết quả nổi bật trong triển khai CPĐT thời gian qua là tiền đề, tạo nền tảng phát triển Chính phủ số giai đoạn mới:
- Hạ tầng truyền dẫn phục vụ hoạt động nội bộ của các CQNN và cung cấp dịch vụ công trực tuyến đã được hình thành. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, Nhà nước đã kết nối đến tất cả các bộ, ngành, địa phương; mạng Internet băng rộng được phát triển, kết nối tới người dân, DN, tỷ lệ người dùng Internet đạt trên 70%.
- Các cơ sở dữ liệu quy mô quốc gia quan trọng dần được phát triển và đưa vào sử dụng, đó là các cơ sở dữ liệu về đăng ký DN, bảo hiểm, hộ tịch và gần đây nhất, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã đượckhai trương vào ngày 25/2/2021.
- Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia đã được triển khai, đó là: tất cả các bộ, ngành, địa phương đã có nền tảng, tích hợp chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh và kết nối với nhau qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia.
- Các hệ thống thông tin chuyên ngành quan trọng của của cơ quan nhà nước đã được xây dựng và phát huy hiệu quả; tiêu biểu như các hệ thống thông tin chuyên ngành quản lý thuế, hải quan, kho bạc, ngân sách nhà nước.
- Tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 ngày càng cao. Hiện nay đã đạt trên 35%, nhiều cơ quan đã cung cấp 100% dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến mức độ 4.
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 6 tháng 6/2021)