Đại hội Đảng XIII: 12 nhóm giải pháp phát triển kinh tế xã hội bền vững

Bản tin ICT - Ngày đăng : 21:11, 30/01/2021

Nhiều ý kiến đại biểu, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách đánh giá: Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 (Dự thảo báo cáo KTXH) là sự kết tinh của trí tuệ tập thể, rất đáng để các ngành, các cấp, các địa phương nghiên cứu, thực hiện.

Đại hội Đảng XIII: 12 nhóm giải pháp phát triển kinh tế xã hội bền vững - Ảnh 1.

Nhiều thành tựu rất quan trọng, toàn diện, tạo dấu ấn nổi bật nhiệm kỳ Đại hội XII

Theo đánh giá chung nhất tại Dự thảo Báo cáo KTXH, sau 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, kinh tế vĩ mô dần ổn định, tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành phát triển kinh tế - xã hội, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên. Tuy nhiên, những khó khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế đã ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Ảnh hưởng từ bên ngoài gia tăng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu còn hạn chế; tác động của biến đổi khí hậu ngày càng mạnh, các loại dịch bệnh xảy ra... cũng đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân và khả năng hoàn thành mục tiêu kế hoạch 5 năm, đặc biệt là đại dịch COVID-19 từ đầu năm 2020.

Trong bối cảnh đó, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc, quyết liệt, kịp thời của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp, nhất là trong năm 2020 vừa tập trung phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta đã vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020 tại Đại hội Đảng lần thứ XII và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.

Mặc dù còn có những hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức. Kết quả phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều mặt vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và thiếu tính bền vững... Song, với quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trước Đại hội XIII của Đảng, nhiều phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển KT-XH 5 năm 2021-2025 đã được xác định một cách rõ ràng.

Theo đó, mục tiêu tổng quát sẽ bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn mức bình quân của 5 năm 2016 - 2020, đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện các giải pháp khắc phục tác động của đại dịch COVID-19, nhanh chóng phục hồi kinh tế. Phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức sáng tạo của mỗi cá nhân. Từng bước xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Nâng cao đời sống nhân dân và bảo đảm an sinh xã hội. Chú trọng bảo vệ môi trường và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu. Tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại hội Đảng XIII: 12 nhóm giải pháp phát triển kinh tế xã hội bền vững - Ảnh 2.

Đại hội XIII được kỳ vọng sẽ bàn bạc, hoạch định, thống nhất nhiều phương hướng lớn phát triển KT-XH đất nước, trong đó có cơ sở hạ tầng.

Đồng bộ các giải pháp, tiếp tục đột phá trong chất lượng nguồn nhân lực và đổi mới sáng tạo

Bàn về Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, nhiều ý kiến đại biểu, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách có đánh giá rất tâm huyết, trách nhiệm bằng những tham luận chất lượng.

Song nhiều ý kiến đều đồng tình, Dự thảo Báo cáo KT-XH được đầu tư rất công phu, toàn diện là kết tinh của trí tuệ tập thể, rất đáng để các ngành, các cấp, các địa phương nghiên cứu, thực hiện.

Trong đó, 12 nhóm giải pháp phát triển KTXH của đất nước trong 5 năm tới có thể kể đến: Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai, cần đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển nền kinh tế số. Thứ ba, phát triển các vùng và khu kinh tế. Thứ tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị. Đi liền với đó là giải pháp thứ năm về tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư của nền kinh tế.

Đáng chú ý, nhóm giải pháp thứ sáu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ được kỳ vọng mang lại những thay đổi lớn, nhất là khi nhóm giải pháp về nguồn nhân lực và đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ này đã được nhiều chuyên gia đánh giá là khâu đột phá chiến lược.

Theo đó, tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao được xác định trọng tâm là hiện đại hoá, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong các ngành, lĩnh vực chủ yếu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn. Triển khai có hiệu quả hệ thống giáo dục quốc dân mới theo các mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Đa dạng hoá phương thức đào tạo dựa theo mô hình giáo dục mở, khung trình độ quốc gia, gắn với thị trường và đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số...

Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong giáo dục - đào tạo; thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân.

Đồng thời, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. Đi liền với đó là tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, trong đó chú trọng tháo gỡ các rào cản về hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế, tài chính đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học xã hội, gắn kết chặt chẽ khoa học xã hội với khoa học tự nhiên và công nghệ để có cơ sở khoa học phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đổi mới và tham gia giải quyết các vấn đề lớn của xã hội. Tập trung phát triển nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng công nghệ cốt lõi. Lựa chọn và tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu, ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực then chốt.

Thực hiện chuyển đổi số quốc gia trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất kinh doanh, tổ chức xã hội; thực hiện chuyển đổi số trong các doanh nghiệp (quản trị doanh nghiệp, nguồn nhân lực, dây chuyền sản xuất,...). Ứng dụng và phát triển công nghệ mới, tập trung phát triển công nghệ ưu tiên có khả năng ứng dụng cao, nhất là công nghệ số, thông tin, trí tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động hoá, điện tử y sinh, sinh học, năng lượng sạch, công nghệ môi trường. Tiếp tục đầu tư và khai thác có hiệu quả các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung theo mô hình tiên tiến trên thế giới...

Xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. Thúc đẩy phát triển mạnh hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, đẩy nhanh thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia.

Cùng với nhóm giải pháp về nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ, nhóm giải pháp thứ bảy là cần phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với xã hội.

Thứ tám, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đi cùng với nhóm giải pháp thứ chín về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Ba nhóm giải pháp cuối cùng lần lượt là: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển; Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.


Bình Minh