Nghị định thư sửa đổi AJCEP có hiệu lực: Cơ hội cho các nhà đầu tư tại Việt Nam
Hội nhập - Ngày đăng : 20:26, 08/09/2020
Nhật Bản và các nước thành viên ASEAN đã khởi động tiến trình đàm phán về AJCEP từ năm 2005. Hiệp định được ký kết vào tháng 4/2008 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/12/2009, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại hàng hóa, trong khi các vấn đề liên quan đến mở cửa đầu tư và dịch vụ vẫn tiếp tục được đàm phán sau đó.
Để hiểu rõ tác động của Nghị định thư đối với các doanh nghiệp và cơ hội đầu tư tại Việt Nam, chúng ta cùng thảo luận về những thay đổi lớn trong Nghị định thư này.
ASEAN - Nhật Bản nâng cấp hiệp định đối tác kinh tế toàn diện
Hai bên đã bắt đầu các cuộc đàm phán về việc sửa đổi AJCEP vào năm 2010 và đạt được thỏa thuận ở cấp bộ trưởng vào năm 2017. Nhật Bản đã ký Nghị định thư thứ nhất để sửa đổi AJCEP vào ngày 27/2/2019, trong khi các nước thành viên ASEAN đã ký văn bản này vào các tháng 3 và 4/2019.
Hiệp định AJCEP sửa đổi đã có hiệu lực vào ngày 01/8/2020 và sẽ cho phép gia tăng dòng chảy đầu tư và dịch vụ xuyên biên giới giữa Nhật Bản và 10 nước ASEAN. AJCEP sửa đổi là một bước tiến quan trọng trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và ASEAN, đối tác thương mại lớn thứ ba của Nhật Bản (với tư cách một khối) sau Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) và Mỹ.
Nghị định thư sửa đổi AJCEP có sự liên quan đặc biệt đối với ba quốc gia - Lào, Myanmar và Campuchia – là những nước hiện không có các hiệp định thương mại tự do song phương với Nhật Bản. Năm 2019, thương mại với Nhật Bản đối với các quốc gia này chiếm hơn 4,6 tỷ USD, tương đương 2,1% tổng thương mại của ASEAN.
Nghị định thư cũng bao gồm các quy tắc và cam kết tự do hóa từ các nước ASEAN không có trong các hiệp định đối tác kinh tế song phương và các hiệp định liên quan được ký kết giữa Nhật Bản và các quốc gia thành viên ASEAN.
Điều này có nghĩa là, ví dụ, ở Myanmar, vốn đầu tư của Nhật Bản có thể được triển khai trong các ngành vận tải, truyền thông, tài chính và xây dựng, và các công ty nước ngoài cũng sẽ được phép tăng cổ phần của mình trong các công ty trong nước vượt quá 35%.
Tại Indonesia, tự do hóa sẽ liên quan đến các ngành công nghiệp thực phẩm và đồ uống và lĩnh vực bảo vệ môi trường. Trong khi Lào sẽ chứng kiến sự mở cửa dần dần của ngành công nghiệp cho thuê thiết bị. Các điều khoản khác bao gồm các công cụ giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư và nhà nước, đồng thời kêu gọi sự minh bạch của chính phủ khi từ chối đơn xin đầu tư nước ngoài cho một hoạt động kinh doanh mới.
Thúc đẩy hơn nữa thương mại và đầu tư giữa Nhật Bản và ASEAN
Bộ Ngoại giao Nhật Bản cho biết, mục tiêu của AJPEC sửa đổi là thúc đẩy hơn nữa thương mại và đầu tư giữa Nhật Bản và ASEAN đang phát triển nhanh và tăng cường mối quan hệ hợp tác Nhật Bản - ASEAN.
Theo dữ liệu do Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) tổng hợp, ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ ba của nước này, sau Trung Quốc và Mỹ. Thương mại giữa Nhật Bản và ASEAN đứng ở mức 214 tỷ USD vào năm 2019, với nhập khẩu (108 tỷ USD) vượt quá xuất khẩu (106 tỷ USD), giảm so với tổng số 226,5 USD tỷ USD năm 2018.
ASEAN luôn là một khu vực thu hút sự quan tâm của Nhật Bản. Trong 5 năm qua, các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư trung bình 20 tỷ USD mỗi năm vào khu vực này.
Tính đến năm 2019, có khoảng 13.000 công ty Nhật Bản hoạt động trong khu vực này và hơn 200.000 công dân Nhật Bản sống và làm việc trong khối 10 quốc gia ASEAN. Một cuộc khảo sát của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) vào năm 2019 cho thấy hơn 56% doanh nghiệp Nhật Bản đang tìm cách mở rộng hoạt động kinh doanh tại các nước ASEAN trong những năm tới, đặc biệt là Việt Nam, Indonesia và Thái Lan.
Các sự kiện quốc tế gần đây như chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và đại dịch Covid-19 thậm chí còn liên quan nhiều hơn đến ASEAN với tư cách là cơ sở sản xuất và xuất khẩu cho các công ty Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản cũng đã khuyến khích các doanh nghiệp Nhật Bản đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ cho ASEAN.
Trong số các biện pháp của gói 992 tỷ USD cứu trợ đại dịch được Chính phủ Nhật Bản công bố vào tháng 4/2020 - có một quỹ hỗ trợ kinh tế trị giá khoảng 2,4 tỷ USD để giúp cho các doanh nghiệp Nhật Bản đưa sản xuất từ Trung Quốc trở lại Nhật Bản, hoặc dịch chuyển sang các nước khác ở Đông Nam Á. Động thái này nhằm giảm rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng trong tương lai.
Ý nghĩa của Nghị định thư mới đối với Việt Nam
Nhật Bản là một trong những đối tác thương mại, nguồn đầu tư và nhà cung cấp viện trợ nước ngoài hàng đầu của Việt Nam. Trong những năm gần đây, Việt Nam nổi lên như một điểm đến hấp dẫn đầu tư và là lựa chọn cho chiến lược tái cấu trúc, dịch chuyển chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp Nhật Bản.
Theo JETRO, 64% doanh nghiệp Nhật Bản có kế hoạch mở rộng hoạt động hiện tại tại Việt Nam và 43% người được hỏi cho biết Việt Nam là lựa chọn dịch chuyển chuỗi cung ứng đầu tiên của họ.
Trong bối cảnh đó, Nghị định thư mới hướng tới việc thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ các cơ hội thương mại và đầu tư giữa Nhật Bản và các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Tương tự, Việt Nam cũng đưa ra các cam kết chính là cho phép tiếp cận thị trường, nới lỏng các quy định về hiện diện thương mại và dịch chuyển nhân lực đối với một số ngành công nghiệp và dịch vụ, nhằm thu hút nhiều cơ hội đầu tư và giao thương từ Nhật Bản.
Cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới
Việt Nam dự kiến sẽ xóa bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với việc cung cấp xuyên biên giới phần lớn các dịch vụ, bao gồm pháp lý, kế toán, kiểm toán, thuế, kỹ sư và kỹ sư tổng hợp, y tế và nha khoa, máy tính và các dịch vụ liên quan, hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học tự nhiên, nghiên cứu thị trường và tư vấn quản lý, giáo dục, dịch vụ quảng cáo, v.v.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cho phép các pháp nhân nước ngoài có mặt trong hầu hết các dịch vụ nói trên, với một số ngoại lệ và quy định cụ thể đối với các dịch vụ như kỹ thuật, y tế và nha khoa, nông nghiệp và dịch vụ sản xuất.
Ví dụ, Nghị định thư cho phép thành lập bệnh viện 100% vốn đầu tư nước ngoài với số vốn tối thiểu là 20 triệu USD và cũng cho phép các doanh nghiệp nước ngoài từ Nhật Bản và các thành viên khác của AJCEP tiến hành kinh doanh các dịch vụ kỹ thuật.
Dịch chuyển các chuyên gia
Dịch chuyển các chuyên gia đề cập đến việc các công dân từ bất kỳ thành viên nào của AJCEP di chuyển sang nước ngoài để cung cấp dịch vụ thương mại. Trong Nghị định thư này, Việt Nam đã cho phép nhân viên bán các dịch vụ, các cá nhân kinh doanh chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam và các nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng nước ngoài khác có thời hạn 90 ngày.
Những người di chuyển trong nội bộ công ty (quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia) của các công ty nước ngoài có hiện diện thương mại tại Việt Nam sẽ được cấp phép nhập cảnh và giấy phép lưu trú trong thời hạn ban đầu là ba năm. Điều này có thể được gia hạn tùy theo thời hạn hoạt động của các đơn vị đó tại Việt Nam.
Về phía Nhật Bản, doanh nhân Việt Nam hiện có thể xin thị thực đầu tư và kinh doanh ngắn hạn hoặc dài hạn. Các chuyên gia của một số lĩnh vực như pháp lý, kế toán, thuế và các nhà cung cấp dịch vụ đủ điều kiện có thể ở lại Nhật Bản trong tối đa 5 năm. Điều này cũng có thể mở rộng cho vợ/chồng và con cái của họ.
Những cơ hội quan trọng
Nghị định thư cho phép ASEAN và Nhật Bản chia sẻ các nguồn lực sẵn có thông qua hợp tác chung để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của cả ngành sản xuất và dịch vụ. Các nhà sản xuất cũng có thể hưởng lợi từ việc tìm nguồn cung ứng lớn hơn. Ví dụ, họ có thể sử dụng nguyên liệu thô hoặc nguyên liệu trung gian từ bất kỳ thành viên AJCEP nào với mức thuế ưu đãi.
Nghị định thư sửa đổi sẽ mang lại lợi ích cho Nhật Bản, vì nó giúp các công ty Nhật Bản, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ dễ dàng thiết lập cơ sở tại các nước ASEAN khác nhau, bao gồm Việt Nam, và dịch chuyển các thành phần và sản phẩm xuyên biên giới như thể đó là một chuỗi lắp ráp xuyên quốc gia.
Đối với Việt Nam, AJCEP cũng mang lại các lợi ích lớn hơn nữa từ việc xóa bỏ thuế quan ngay lập tức và nhanh chóng đối với các sản phẩm và dịch vụ mà không bao gồm trong VJEPA.