Tiền mã hóa - Kinh nghiệm các nước đến góc nhìn ở Việt Nam
Xu hướng - Dự báo - Ngày đăng : 14:44, 05/08/2020
Tại Việt Nam, đứng trước yêu cầu cấp thiết của thực tế cần sớm xây dựng các quy định phù hợp để quản lý, xử lý đối với tiền mã hóa, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/08/2017 phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo.
Tiền mã hóa trên nền tảng bảo vệ 3 lớp
Khi nhắc đến tiền mã hóa (đại diện như các đồng Bitcoin, Ethereum, Litecoin..), chúng có điểm chung được tạo ra từ nền tảng công nghệ gồm: Mật mã học máy tính và công nghệ chuỗi khối (blockchain).
Vì tiền mã hóa được sinh ra trong môi trường công nghệ số nên phương thức vận hành được đảm bảo trên nền tảng hệ thống chuỗi khối, có ưu điểm chuyển thông tin thành dữ liệu số, đảm bảo việc bảo vệ thông tin qua ba tầng: Số hiệu của "khối"; Bằng chứng công việc – đóng góp; Biểu quyết theo đa số.
Ở tầng bảo vệ đầu tiên Số hiệu của "khối", hệ thống đảm bảo an toàn trong trường hợp nếu muốn thay đổi phải có số hiệu nhận biết ban đầu của "khối" đó. Có nghĩa là trong trường hợp "khối" đầu tiên bị thay đổi (giao dịch, thêm, bớt), các khối mới (thợ đào) kế tiếp được tạo ra.
Quá trình này tạo nên sự "đứt gẫy", "khối" sau không khớp lệnh được từ "khối" trước, hệ thống lập tức bị vô hiệu hóa. Do vậy nêu muốn xâm nhập trái phép vào hệ thống, phải vượt qua chuỗi khối blockchain, đây là cửa đầu bảo vệ không dễ vào.
Tầng bảo vệ thứ hai - Bằng chứng công việc đóng góp. Trong trường hợp nếu xuất hiện "thợ đào" đã đào thành công một "khối" thì hệ thống sẽ ghi nhận và báo cho toàn bộ người dùng trong hệ thống biết việc người "thợ đào" này là chủ nhân của khối đó. Khi một người khác muốn xâm nhập "khối" này thì đã biến "khối" đó trở thành một "khối" mới và không còn do người "thợ đào" cũ tạo ra nữa. Sự ghi thay đổi này cũng sẽ được hệ thống phát hiện và báo cho các cá nhân khác trong hệ thống biết để bảo vệ.
Tầng bảo vệ cuối cùng thứ ba - Biểu quyết theo đa số. Đây là tầng vận hành trên phương thức khi một "khối" mới được tạo ra thì toàn bộ người dùng trong hệ thống đều biết được "khối" đó là của ai và có nội dung gì. Trong trường hợp nếu có người khác xâm nhập được duy nhất trên tài khoản của "người đào" đã tạo ra "khối" đó thì cũng không thể tạo ra bất cứ thay đổi gì vì toàn bộ những người dùng còn lại đều ghi nhận "khối" cũ do người "thợ đào" cũ tạo ra mới là "khối" chính xác.
Như vậy, để có thể xâm nhập thành công một giao dịch trong một "khối" trên hệ thống blockchain, một người phải vượt qua cả ba tầng bảo vệ và phải được diễn ra trong thời gian ngắn nhất định để trước khi các "khối" mới được thêm vào hệ thống (ví như trong blockchain của Bitcoin, công việc này cần phải được hoàn thành trong thời gian dưới 10 phút). Tuy nhiên, để làm được việc này không phải chuyện dễ dàng, bởi thực tế đã chứng minh blockchain luôn đảm bảo tính bảo mật và công khai đến mức tối ưu so với các công nghệ khác.
Từ những đặc điểm trên có thể nói tiền mã hóa trên công nghệ blockchain đảm bảo an toàn trong các "khối", không dễ dàng bị thay đổi hay xóa bỏ, bổ sung từ hành vi lén lút xâm phạm. Những ưu điểm này kéo theo sự đảm bảo tính minh bạch (người dùng trong hệ thống), bảo mật (những cá nhân, tổ chức bên ngoài hệ thống).
Tiền mã hóa, những thách thức pháp luật của nhiều quốc gia
Có thể nói, bên cạnh những ưu điểm từ ứng dụng công nghệ blockchain, nhất đối với vấn đề tiền mã hóa cũng đang mang đến những thách thức mới cho hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới như: Nó có được coi là một loại tài sản mới mới có thể để sử dụng để trao đổi với nhiều loại tài sản sẵn có khác? Quản lý các giao dịch sử dụng tiền mã hóa như nào để phòng chống nguy cơ rửa tiền, tài trợ khủng bố? Các loại thuế liên quan đến tiền ảo quy định thế nào? Có thể làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước?...
Hiện nay, có rất ít quốc gia ban hành văn bản quy phạm pháp luật riêng về tài sản mã hóa (như Nhật, Thái Lan). Một số quốc gia cấm hoàn toàn hoặc hạn chế sử dụng tiền mã hóa (Trung Quốc, Algerria…). Nhiều quốc gia khác đang xem xét thiết lập khung pháp lý điều chỉnh các hành vi sử dụng, trao đổi tài sản mã hóa nhằm bảo vệ người sử dụng, chống gian lận, lừa đảo và các hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố (như Mỹ, EU, Australia, Singapore…).
Trong số đó, điển hình như 3 quốc gia Nhật Bản, Mỹ, Singapore đã chủ động nghiên cứu, sớm đưa khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, điều chỉnh các nội dung liên quan đến tiền mã hóa.
Ở Nhật Bản, Luật Dịch vụ thanh toán quy định chi tiết, cụ thể tiền mã hóa gồm tiền loại I và loại II. Loại I (Bitcoin, Litecoin, tiền mã hóa khác) là giá trị tài sản, được lưu trữ trên thiết bị điện tử hoặc phương tiện khác thông quan các phương thức điện tử, không bao gồm tiền thanh toán khi mua hàng hóa dịch vụ hay thuê tài sản từ một người không xác định, có thể chuyển giao bằng cách sử dụng hệ thống xử lý dữ liệu điện tử.
Tiền loại II (Ethereum và các loại tiền ảo khác không được sử dụng như phương tiện thanh toán ở thời điểm hiện tại nhưng được chấp nhận để trao đổi với Bitcoin) là giá trị tài sản có thể được sử dụng để trao đổi với tiền ảo loại I với người không xác định thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử.
Chính phủ Nhật Bản có thể quản lý dòng tiền mã hóa thông qua các tài khoản đăng ký tại các sàn giao dịch, nhà cung cấp dịch vụ Giao dịch Tiền mã hóa. Các giao dịch mua, bán, trao đổi tiền mã hóa giữa các tài khoản của nhà đầu tư qua sàn giao dịch đều nằm trong sự kiểm soát nhất định của Chính phủ.
Tuy chưa cụ thể, chi tiết như ở Nhật Bản, nhưng ở Mỹ, tiền mã hóa - thuật ngữ "tiền ảo" đã được sử dụng phổ biến, các cơ quan quản lý của Mỹ đang căn cứ vào từng vụ việc cụ thể và hoạt động có liên quan (trao đổi, kinh doanh, phát hành, lưu trữ, sử dụng) để xác định bản chất pháp lý của từng loại tài sản mã hóa là chứng khoán, một dạng công cụ thanh toán hoặc hàng hóa hữu ích.
Theo hướng dẫn FIN-2013-G001 của Mạng lưới Thi hành Luật pháp về Tội phạm Tài chính (FinCEN) thuộc Bộ Tài chính Hoa Kỳ, tiền mã hóa là một phương tiện trao đổi và hoạt động như tiền tệ trong một số môi trường nhưng không có đầy đủ các thuộc tính của tiền pháp định (có thể nó không có địa vị pháp lý của tiền pháp định ở bất cứ quốc gia nào, là các loại tiền ảo có khả năng chuyển đổi hoặc có giá trị tương đương với tiền thật, cũng có thể hoạt động thay thế cho tiền thật).
Cũng theo FinCEN, vì các giao dịch tiền mã hóa diễn ra trên phạm vi, quy mô xuyên quốc gia nên khó áp dụng các quy định dành cho ngoại hối. Việc ban hành hướng dẫn, nhằm hướng đến các chủ thể là cá nhân, pháp nhân, tổ chức chấp nhận thanh toán tiền mã hóa từ bất kỷ chủ thể nào khác và chuyển đổi đồng tiền mã hóa này cho chủ thể thứ ba.
Cơ quan Thuế vụ Hoa Kỳ (IRS) cũng ban hành hướng dẫn IR–2014-21 về việc áp dụng các quy định các quy định về thuế hiện hành đối với các giao dịch sử dụng tài sản mã hóa (tiền ảo). IRS thừa nhận tài sản mã hóa có thể được sử dụng để thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ hoặc nắm giữ nhằm mục đích đầu tư.
Đối với Singapore, tiền mã hóa (tiền ảo), tuy không phải là tiền pháp định hay tiền tệ, nhưng mặc định nó được coi là một tài sản vô hình. Chính phủ Singapore coi việc cung cấp tiền mã hóa là cung cấp "dịch vụ" vì thực chất người sở hữu tiền mã hóa sẽ được cung cấp một dịch vụ nhất định trong tương lai và không được miễn thuế tiêu dùng.
Những kiến nghị, kinh nghiệm nước ngoài
Là một chuyên gia pháp luật, nghiên cứu nhiều về vấn đề này, Luật sư - ThS Nguyễn Huy Hoàng Nam, Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội, cho rằng: Việt Nam nên chủ động nghiên cứu, đưa ra một khái niệm phù hợp về "tiền mã hóa" theo hướng, công nhận đây là một loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015.
Bên cạnh đó, có thể xem xét một số cách phân loại, định danh khác đối với tiền mã hóa nói riêng và tài sản mã hóa nói chung như chia tài sản mã hóa thành 02 loại: có tính chất giống với chứng khoán hoặc như một loại hàng hóa. Cụ thể, báo cáo cáo số 255/BC-BTP ngày 29/10/2018 của Bộ Tư pháp đã đề xuất cách phân loại này dựa trên tính năng, công dụng của từng loại tiền (hay tài sản) mã hóa cụ thể.
Mặc dù pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện hành không coi tiền mã hóa là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam và có thể trong tương lai cũng chưa nên coi là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật sư Nam cho rằng: "Một cộng đồng hay một hệ sinh thái cụ thể có thể sử dụng một loại tiền mã hóa nhất định để làm phương tiện thanh toán trong cộng đồng hay hệ sinh thái đó. Trong trường hợp này, cần đối xử với hành vi như vậy là hình thức trao đổi (barter) giữa hang hóa, dịch vụ với hàng hóa, dịch vụ".
Bên cạnh đó, cần có những quy định chặt chẽ, cụ thể về hoạt động chào bán tiền mã hóa ra công chúng (ICO). Theo đó, những hoạt động ICO không được đăng ký đều coi là không hợp pháp; đồng thời các tổ chức cá nhân thực hiện ICO không đăng ký có thể bị xử phạt hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ vi phạm. Đây là những biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực này.
Chúng ta cũng cần xây dựng các tiêu chí cụ thể về mặt pháp lý và công nghệ để từ đó, cấp phép hoạt động cho các sàn giao dịch tiền mã hóa và các công ty trung gian trong lĩnh vực này tại Việt Nam.
"Nhà nước cần đẩy mạnh tuyên truyền người dân nhằm hạn chế thực hiện các giao dịch giữa các ví cá nhân với nhau để tránh nguy cơ bị kẻ xấu lợi dụng tính ẩn danh của các loại ví điện tử để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản" , theo Luật sư Nam.
Nhà nước cần xác định cách tính thuế đối với tiền mã hóa cũng là một hình thức ghi nhận chính thức tư cách pháp lý của loại tài sản này trong hệ thống pháp luật Việt Nam, mở đường cho một loạt các luật, bộ luật có liên quan đi kèm có thể xử lý các vấn đề có liên quan như trốn thuế (Bộ luật hình sự), rửa tiền (Luật phòng, chông rửa tiền)…
Như vậy, trên trao đổi của luật sư Nam, cũng như qua cách nhìn, kinh nghiệm từ các nước đối với vấn đề tiền mã hóa cho thấy tính cấp thiết của việc sớm xây dựng chế độ pháp lý, quy định phù hợp để quản lý vấn đề này, đảm bảo theo kịp sự phát triển của công nghệ và xã hội số văn minh.