Giao thông vận tải và hậu cần tại Việt Nam
Diễn đàn - Ngày đăng : 13:47, 17/08/2019
Vận chuyển
Cơ sở hạ tầng giao thông Việt Nam đang mở rộng nhanh chóng, tuy nhiên sự phát triển trong lĩnh vực này vẫn còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu của về tăng trưởng kinh tế và xã hội của đất nước. Các cơ hội chia đều cho vận tải đường bộ, vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường thủy và giao thông công cộng đô thị.
Vận tải đường bộ
Ngành vận tải đường bộ sẽ hoạt động tốt hơn trong vài năm tới, được hưởng lợi từ sự phát triển không ngừng do Việt Nam là một trung tâm sản xuất trong khu vực. Vận tải đường bộ hiện đang đóng một vai trò quan trọng tại Việt Nam, phục vụ khoảng 75,6% tổng số vận tải hàng hóa và 94,09% tổng số hành khách vận chuyển. Hiện tại hệ thống đường bộ tại Việt Nam dài khoảng 258.200 km, trong đó chỉ có 19% được trải nhựa và 40% trong tình trạng kém. Việc thiếu một mạng lưới cơ sở hạ tầng đường bộ được bảo trì tốt và đủ để có thể kết nối các trung tâm dân số trọng điểm với các Khu công nghiệp, Khu kinh tế trọng điểm, sân bay, cảng biển và đường thủy nội địa, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, sức mạnh chi tiêu tiêu dùng trong nước tăng sẽ thúc đẩy nhu cầu về các dịch vụ vận tải đường bộ được cải thiện. Việc đầu tư đã được công bố và lên kế hoạch nhưng việc thực hiện những tham vọng này đòi hỏi sự kiên nhẫn. Các dự án cơ sở hạ tầng đường bộ dường như không đủ hấp dẫn đối với các công ty Hà Lan do sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Vận tải hàng không
Vận tải hàng không tại Việt Nam được giám sát bởi Cục Hàng không dân dụng Việt Nam (CAAV) và cơ sở hạ tầng sân bay được phát triển và quản lý bởi ba công ty đại chúng trong đó Tập đoàn Sân bay là lớn nhất. Tổng cộng, Việt Nam có 23 sân bay và trong Kế hoạch tổng thể đến năm 2020, Chính phủ phải nâng cấp hầu hết các sân bay hiện có và phát triển các sân bay mới với tổng vốn đầu tư là 13,4 tỷ USD. Dự án quan trọng nhất thu hút sự chú ý nhất là Sân bay quốc tế Long Thành với tổng vốn đầu tư là 6,7 tỷ USD cho giai đoạn 1. Nguồn tài chính cho phát triển cơ sở hạ tầng sân bay đến từ ngân sách nhà nước, ODA và Việt Nam đang khám phá khả năng của các Đối tác công tư tài chính. Phát triển các sân bay “xanh” và nâng cấp các sân bay “nâu” sẽ cung cấp nhiều cơ hội liên quan đến tư vấn và lập kế hoạch, công nghệ cho các mục đích an toàn, an ninh và hậu cần và chuyển giao kiến thức. Khối lượng vận tải hàng không tăng 9,2% trong năm 2017 (ước tính BMI) để đạt mức 257,540 tấn, tăng trưởng 2018 là 8,3% (ước tính BMI). Theo thống kê của CAAV, tổng khối lượng thị trường năm 2016 đạt hơn 52 triệu hành khách (tăng 29% so với năm 2015) trong đó lưu lượng hành khách hàng không nội địa tăng lên 28 triệu (tăng 30% so với năm 2015). Sân bay Schiphol là một sân bay hàng đầu châu Âu và là nơi trình diễn tuyệt vời về công nghệ và quy hoạch của Hà Lan, vì thế, Hà Lan có thể cung cấp các giải pháp cần thiết cho nhu cầu của Việt Nam trong việc phát triển sân bay.
Vận tải đường sắt
Mạng lưới đường sắt hiện tại của Việt Nam dài 3.200 km và có khả năng hạn chế về vận tải hành khách (5%) và vận chuyển hàng hóa (2%). Kế hoạch tổng thể về phát triển giao thông đường sắt trong giai đoạn 2010 - 2030 sẽ tăng khả năng vận tải và khuyến khích sản xuất các toa xe và đầu máy xe lửa mới. Ngoài ra một số tuyến quốc tế được lên kế hoạch kết nối miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc và kết nối Côn Minh - Việt Nam - Campuchia - Malaysia và Singapore. Cơ sở hạ tầng đường sắt hiện tại kém phát triển và được bảo trì kém dẫn đến việc không thể cạnh tranh với các phương thức vận tải khác như vận tải đường bộ và đường hàng không. Các dự án cơ sở hạ tầng đường sắt dường như không đủ hấp dẫn đối với các công ty Hà Lan.
Giao thông đô thị công cộng
Giao thông đô thị công cộng tập trung chủ yếu ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vì đây là các khu vực đô thị đông dân cư mở rộng. Hai thành phố này đang đối mặt với những thách thức trong việc áp dụng một hệ thống giao thông đại chúng hiện đại dẫn đến tình trạng tắc nghẽn và ô nhiễm ngày càng tăng. Cả hai thành phố đều có kế hoạch phát triển các phương tiện giao thông công cộng như hệ thống xe buýt, đường sắt trên cao và tàu điện ngầm. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ xây dựng sáu tuyến tàu điện ngầm và ba tuyến xe điện. Kinh phí cho các dự án này sẽ đến từ ADB, Nhật Bản, EIB và các nước châu Âu như Đức và Tây Ban Nha. Tại Hà Nội, một mạng lưới gồm 8 tuyến tàu điện ngầm và đường sắt trên cao được phát triển với tuyến đầu tiên hoạt động vào năm 2018. Mạng lưới đầy đủ sẽ được vận hành vào năm 2050. Tài trợ chính là thông qua các khoản vay ODA do Trung Quốc cung cấp cho tuyến tàu điện ngầm đầu tiên. Cơ hội có thể được tìm thấy trong các giải pháp giao thông công cộng đô thị thông minh, giải pháp phủ xanh và giải pháp quy hoạch.
Giao thông đường thủy
Với 224 cảng sông, 8.000 bến sông, 44 cảng biển và 219 bến cảng Giao thông đường thủy Việt Nam chiếm 23,6% tổng vận tải hàng hóa và 4,7% tổng lượng vận tải hành khách. Tuy nhiên, trong số tất cả các tuyến đường thủy nội địa chỉ chiếm 20% tổng chiều dài dưới sự quản lý của VIWA thuộc Bộ Giao thông Vận tải. Bên cạnh đó, các tuyến giao thông vẫn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Mặc dù việc đầu tư vào việc nạo vét mở rộng phạm vi đường thủy còn hạn chế, nhưng có thể có cơ hội cho các chuyên gia Hà Lan để cải thiện vấn đề này.
Hậu cần
Ngành công nghiệp hậu cần là một trong những ngành phát triển nhanh nhất tại Việt Nam và ước tính sẽ tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Hiện nay, dịch vụ hậu cần chiếm 15-20% GDP tại Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng hậu cần kém phát triển và không đầy đủ dẫn đến chi phí tương đối cao.
Hà Nội (phía Bắc) và Thành phố Hồ Chí Minh (phía Nam) là những trung tâm hậu cần lớn hiện nay tại Việt Nam. Có một xu hướng cho các dịch vụ hậu cần tại Việt Nam và chúng được phân thành hai nhóm:
- Các dịch vụ cơ bản bao gồm vận chuyển để lưu kho đi và vận chuyển để nhập kho trong nước.
- Các dịch vụ chuyên ngành bao gồm quản lý kho, quản lý hàng tồn kho, xử lý đơn hàng, quản lý nhà cung cấp, thông tin và hỗ trợ tùy chỉnh, hậu cần đảo ngược và hậu cần kiểm soát khí hậu.
Những người tham gia thị trường này được chia thành ba nhóm:
- Các công ty đa quốc gia và liên doanh: nhắm mục tiêu khách hàng toàn cầu tại Việt Nam bằng cách cung cấp các gói logistic (chẳng hạn như gói 3PL Logistics, Third Party Logistics)
- Các công ty và tập đoàn nhà nước: nhóm này chiếm lĩnh thị trường địa phương về vận tải và giao hàng.
- Công ty cổ phần và tư nhân: nhóm này nhắm đến những khách hàng thuộc khu vực tư nhân tại Việt Nam. Nhóm này bao gồm các công ty địa phương nhỏ, vốn thấp. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ đang cạnh tranh với những người chơi trong nhóm đầu tiên để cung cấp gói 3PL cho các khách hàng đa quốc gia tại Việt Nam.
Các công ty Hà Lan có thể thiết lập hoạt động của mình thông qua một thực thể tại Việt Nam để cung cấp dịch vụ hậu cần tại Việt Nam hoặc tham gia vào các bộ phận của chuỗi cung ứng dịch vụ như:
- Trung tâm kho bãi và phân phối: Có cơ hội thiết lập cơ sở hạ tầng kho bãi, bao gồm hệ thống kho bãi kiểm soát khí hậu tại các sân bay để xử lý vận tải hàng không tại một số trung tâm xuất khẩu như Đà Nẵng và đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng kho nên được tích hợp vào các chức năng hậu cần khác như vận chuyển, quản lý hàng tồn kho, chuỗi lạnh, cơ sở hải quan và quản lý kho.
- Các công ty Hà Lan có thể là nhà cung cấp phần mềm cho Hệ thống quản lý kho - WMS và Hệ thống quản lý vận tải -TMS do thiếu phần mềm như vậy trong hầu hết các kho và trung tâm phân phối tại Việt Nam hiện nay.
- Giáo dục và đào tạo: Việc thiếu nhân viên hậu cần lành nghề và có kinh nghiệm tại Việt Nam và ngành logistic đang phát triển đã tạo ra nhu cầu trong lĩnh vực này. Ngành công nghiệp cũng cần các chương trình hậu cần tiên tiến và giá cả phải chăng để được giới thiệu trong các trường đại học / trường kỹ thuật / trường dạy nghề.
- Hậu cần kiểm soát khí hậu: Việt Nam xuất khẩu rất nhiều hải sản, rau, hoa và cũng nhập khẩu các sản phẩm thực phẩm chế biến và dược phẩm. Điều này tạo ra nhu cầu cao đối với các dịch vụ hậu cần kiểm soát khí hậu. Các công ty Hà Lan có thể là nhà cung cấp công nghệ kho bãi kiểm soát khí hậu tiên tiến, dịch vụ giá trị gia tăng, ví dụ: đóng gói, gắn thẻ, gia công các sản phẩm giá trị cao để xuất khẩu và là nhà cung cấp thiết bị và công nghệ.