Bộ ngành, địa phương tháo gỡ khó khăn cho SXKD quyết liệt, hiệu quả hơn
Diễn đàn - Ngày đăng : 12:54, 05/05/2019
Chiều 4/5/2019, ngay sau phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2019 đã diễn ra buổi họp báo Chính phủ dưới sự chủ trì của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (VPCP), Người phát ngôn của Chính phủ Mai Tiến Dũng. Cùng dự buổi họp báo có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan.
Kinh tế - xã hội chuyển biến tích cực
Mở đầu buổi họp báo, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng đã thông tin về phiên họp Chính phủ thường kỳ diễn ra trước đó: Dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chính phủ đã tập trung thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng năm 2019; công tác chuẩn bị cho kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV; và một số vấn đề khác.
Tại phiên họp, các thành viên Chính phủ đã thảo luận báo cáo về tình hình triển khai thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết 01 và 02 và thống nhất đánh giá kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế trong nước ổn định, tiếp tục đà phát triển, môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh không ngừng được cải thiện.
Theo đó, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2019 tăng 0,31% so với tháng trước, CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2019 tăng 2,71% so với cùng kỳ, đây là mức tăng bình quân 4 tháng đầu năm thấp nhất trong 3 năm gần đây. Thị trường tiền tệ, tín dụng và tỷ giá tương đối ổn định, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 17/4/2019 tăng 3,23% so với cuối năm 2018; mặt bằng lãi suất duy trì ổn định.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng chủ trì buổi họp báo.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản nhìn chung ổn định, đặc biệt ngành lâm nghiệp, thủy sản duy trì mức tăng khá (gỗ khai thác tăng 4,3%, diện tích rừng bị cháy giảm 6,27%, sản lượng thủy sản tăng 5,1%).
Sản xuất công nghiệp đạt kết quả tăng khá. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,2%, thấp hơn mức tăng 10,7% của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng 7,4% và 6,6% cùng kỳ năm 2016 và năm 2017. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,9% (cùng kỳ tăng 12,9%).
Hoạt động thương mại dịch vụ tiếp tục xu hướng tăng khá, thị trường giá cả ổn định, cân đối cung cầu các loại vật tư quan trọng và hàng tiêu dùng thiết yếu được bảo đảm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt tốc độ tăng cao nhất kể từ năm 2015, tăng 11,9%.
Số doanh nghiệp (DN) thành lập mới và vốn đăng ký tiếp tục tăng, với trên 43.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký trên 540.000 tỷ đồng, tăng 4,9% về số DN và tăng 31,7% vốn đăng ký. Ngoài ra, còn có trên 17.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 52,6% so với cùng kỳ.
Vốn FDI đạt 5,7 tỷ USD, tăng 7,5%. Tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm đạt gần 7,5 tỷ USD, tăng 28,6%. Góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 7,14 tỷ USD, gấp 3,2 lần so với cùng kỳ. Đây là những chỉ dấu cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh của chúng ta tiếp tục được cải thiện tốt hơn.
Xuất khẩu tiếp tục tăng khá, đạt 78,76 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ; đặc biệt khu vực kinh tế trong nước đạt 23,33 tỷ USD, tăng 10,5%. Nhập khẩu đạt 78,05 tỷ USD, tăng 10,4%. Xuất siêu 711 triệu USD. Thu ngân sách nhà nước duy trì tiến độ khả quan, chi ngân sách đáp ứng kịp thời các yêu cầu đầu tư phát triển.
Bên cạnh những kết quả tích cực, tình hình kinh tế - xã hội còn gặp khó khăn, thách thức và một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới. Dịch tả lợn châu Phi bước đầu hạ nhiệt, tuy vậy, giá thịt lợn vẫn giảm so với tháng trước; sản lượng cá tra xuất khẩu vào thị trường Mỹ và Trung Quốc giảm; nguy cơ hạn hán, thiếu nước tại các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước, một số sản phẩm công nghiệp chủ đạo tăng thấp hoặc giảm như linh kiện điện thoại giảm 24,6%, dầu thô khai thác giảm 8,3%...; dẫn tới sản xuất công nghiệp của nhiều địa phương giảm.
Tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) của DN còn nhiều khó khăn, số DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là gần 17.000 DN, tăng 19,7%; 5.300 DN giải thể, tăng 12,9%. Vốn đầu tư thực hiện từ ngân sách Nhà nước giảm 30,6% (Bộ Giao thông Vận tải giảm 57,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giảm 56,3%; Bộ Tài nguyên và Môi trường giảm 29,1%...)
Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm do xuất khẩu của khối FDI tăng chậm so với cùng kỳ. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm như điện thoại và linh kiện giảm 0,2%; thủy sản giảm 1,3%; cà phê giảm 22,6%; hạt điều giảm 16,9%; gạo giảm 21,7%; hạt tiêu giảm 12%...
Ngoài ra, còn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng như: đi ngược chiều trên cao tốc, sử dụng rượu bia, ma túy đá khi lái xe... Một số vấn đề xã hội, an ninh trật tự cần quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới như vấn đề y tế (bệnh sốt xuất huyết gia tăng, vấn đề quá tải bệnh viện); nợ đóng bảo hiểm xã hội; an ninh trật tự (buôn bán ma túy khối lượng lớn tăng mạnh trong thời gian vừa qua trên khắp các tuyến biên giới, đã bắt nhiều vụ lớn từ trước đến nay).
Tập trung tháo gỡ khó khăn trong SXKD quyết liệt, hiệu quả
Về nhiệm vụ thời gian tới, các thành viên Chính phủ cho rằng, để có thể đạt và vượt các mục tiêu đã đề ra, thì nhiệm vụ từ nay đến cuối năm và trong Quý II là rất nặng nề, đòi hỏi, các bộ, ngành, địa phương, nhất là người đứng đầu, phải có quyết tâm cao, tập trung thực hiện các kế hoạch; theo dõi sát tình hình quốc tế, trong nước, phân tích kỹ xu hướng để đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược phù hợp với những kịch bản, diễn biến mới.
Toàn cảnh buổi họp báo.
“Chủ đề của năm 2019 đặt ra là: "Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả". Chính phủ, từng thành viên Chính phủ, các bộ ngành, địa phương khẩn trương chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01, 02, Nghị quyết 35 và chương trình hành động của bộ ngành, địa phương, tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong hoạt động SXKD một cách quyết liệt hơn, hiệu quả hơn; thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ cải cách kiểm tra chuyên ngành, tiếp tục đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh thúc đẩy hoạt động SXKD của người dân và cộng đồng DN”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhấn mạnh.
Trong đó, một số giải pháp cụ thể là: Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; Triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phòng chống dịch bệnh chăn nuôi, nhất là dịch tả lợn châu Phi; Có phương án căn cơ để giải quyết việc xuất khẩu gạo, nông sản, thủy sản, chú trọng mặt hàng cá tra; Theo dõi sát sao tình hình SXKD trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là trong công nghiệp chế biến, chế tạo; Khuyến khích đổi mới công nghệ, tăng cường năng lực sản xuất, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu; đề xuất giải pháp tạo bước phát triển mới, mang tính đột phá đối với ngành du lịch cả về lượng, chất.
Tại phiên họp, Tổ công tác của Thủ tướng đã báo cáo kết quả kiểm tra việc cắt giảm thủ tục hành chính thực chất và rà soát các vướng mắc cụ thể đối với SXKD trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ.
Trong tháng 4 vừa qua, Tổ đã làm việc với 7 Bộ, VCCI và đại diện 5 Hiệp hội, ghi nhận 45 kiến nghị về cơ chế, chính sách, rào cản hành chính. Trong đó, có 15 kiến nghị chưa đủ cơ sở để giải quyết, các Bộ và VPCP đã giải thích thỏa đáng. Có 02 kiến nghị liên quan đến 2 dự án Luật đang trình Quốc hội (Luật sửa đổi Luật Phòng chống tác hại của rượu bia và Bộ luật Lao động sửa đổi). Có 16 vướng mắc do quy định tại các văn bản của các Bộ, đã có 08 vấn đề đã được các bộ xử lý, còn lại 08 vấn đề các bộ đều đã nêu phương án xử lý. Tổ công tác đề nghị Chính phủ yêu cầu các Bộ hoàn thành việc xử lý các vướng mắc và thực hiện các cam kết ngay trong tháng 5/2019.
Về 12 kiến nghị thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng, có 06 vấn đề đã được xử lý tại các dự thảo Nghị định trình Chính phủ ban hành, còn lại 06 vấn đề vướng mắc trong thực tiễn. Các Bộ, cơ quan thống nhất với VPCP kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hướng xử lý (như đề xuất bãi bỏ quy định các cơ sở lưu trú du lịch đủ điều kiện xếp hạng vẫn phải xin giấy phép kinh doanh rượu tại chỗ; bãi bỏ quy định DN kinh doanh, nhập khẩu thực phẩm (dạng bao gói sẵn) phải có giấy xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm và giấy xác nhận đủ sức khỏe…).