Chống “diễn biến hòa bình” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên trẻ trước tình hình mới

Chính phủ số - Ngày đăng : 11:19, 01/07/2016

Con đường đến với chủ nghĩa Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham gia vào Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam là con đường đứng đắn nhất, chân chính nhất cho tất cả người Việt Nam yêu nước, nhất là tầng lớp thanh niên, trí thức trẻ tuổi giàu nhiệt huyết, năng động.

Năm 1920 được xem là một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng non trẻ của chàng thanh niên Việt Nam yêu nước có cái tên đặc biệt Nguyễn Ái Quốc. Khi ấy, Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập Đảng Xã hội Pháp nhưng chỉ vì cảm mến các đồng chí của anh đã đồng tình với cuộc đấu tranh dành độc lập cho dân tộc Việt Nam như sau này Người thuật lại: “Tôi tham gia Đảng xã hội Pháp chẳng qua là vì các ‘ông bà ấy’ (thời đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) – đã tỏ đồng với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu” [Con đường dẫn tôi đến Chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, tr561]. Chỉ đến khi được một đồng chí trao tay Luận cương của Lê nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, chàng thanh niên ấy mới tìm được chân lý “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng của chúng ta”.

Từ một người yêu nước nồng nàn nhưng bơ vơ giữa các học thuyết phương Đông, phương Tây đầy phức tạp và không kém phần phù phiếm, ảo tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã chọn “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê nin” [Đường Kách Mệnh, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, tr289]. Người trở thành Đảng viên của Quốc tế Cộng sản, là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.

Gần một trăm năm đã trôi qua, quá trình “tìm đường, nhận đường” của lãnh tụ Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Marx Lenin đã trở thành một bài học vô giá. Ở tuổi tam thập nhi lập, trong những ngày tháng ở Pháp, tham gia một đảng phái chính trị thân cộng sản, Người đã nhận ra rằng chỉ có một lòng yêu nước nồng nàn, bộc trực thôi là chưa đủ cho sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ. Lòng yêu nước cá nhân cần phải được nuôi dưỡng, phát triển trong một môi trường lý tưởng mới phát huy được đầy đủ sức mạnh của nó. Song đó, không thể là Đảng Xã hội Pháp, một Đảng phái được gây dựng nên từ tinh thần vô sản bồng bột, lãng mạn vẫn đương phân vân giữa những ngã rẽ đấu tranh cho nền dân chủ tự do tiểu tư sản; tiếp tục kiên định với lập trường Quốc tế Cộng sản thứ hai. Hồ Chí Minh đã chọn học thuyết Mã Khắc Tư và Lênin vì đó là học thuyết duy nhất lấy “dân chúng” (công nông) làm gốc; có đảng vững bền, bền gan, hy sinh, thống nhất để rồi tạo nên cuộc cách mạng Tháng Mười Nga lịch sử.

Con đường đến với chủ nghĩa Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham gia vào Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam là con đường đứng đắn nhất, chân chính nhất cho tất cả người Việt Nam yêu nước, nhất là tầng lớp thanh niên, trí thức trẻ tuổi giàu nhiệt huyết, năng động. Bởi vì, chỉ đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam, mọi phẩm chất, tố chất tốt đẹp của mỗi cá nhân mới được phát huy, song song với quá trình rèn luyện, học tập, tiếp thu những kinh nghiệm sâu sắc để hoàn thiện, bản thân góp phần công sức nhỏ bé của mình trong tiến trình xây dựng và bảo vệ đất nước, đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Ngược lại, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng vô cùng chú trọng, tạo điều kiện cho những người trẻ tuổi phát huy năng lực của mình một cách tối đa phục vụ cho Đất nước, Đảng và nhân dân.

Như vậy, mối quan hệ giữa cứu cánh là xây dựng một đất nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh và phương tiện là chủ nghĩa cộng sản, cụ thể là chủ nghĩa Marx Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai phạm trù triết học, có tính biện chứng chặt chẽ với nhau. Đó là chân lý khách quan, không thể phủ nhận, bác bỏ. Tuy nhiên, bất chấp chân lý không thể chối cãi ấy, các thế lực thù địch và nhiều cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí vẫn đương tìm mọi cách chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam và một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà họ nhắm tới trong công cuộc lật đổ chính là đảng viên trẻ nói riêng, tầng lớp thanh niên ưu tú của đất nước nói chung. Dưới nhiều vỏ bọc tinh vi, khó lường, họ dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn hòng làm tha hóa đạo đức, lối sống của các Đảng viên trẻ, biến những mầm non ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam thành công cụ chống phá đất nước.

Trong những năm qua, cuộc chiến tranh trong hòa bình - chiến tranh không có khói súng ấy vẫn luôn tồn tại với những diễn biến ngày một phức tạp với trọng tâm ngày một chuyển dịch về các đối tượng thanh niên ưu tú, nhất là các đảng viên trẻ tuổi. Bởi lẽ, đội ngũ này vừa là những “nhựa sống”, tiếp thêm sức mạnh cho Đảng, vừa là mối dây liên kết bền chặt giữa Đảng và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, là tấm gương cho tầng lớp thanh niên học tập, noi theo. Theo nhận định của nhiều cuốn sách về diễn biến hòa bình và chống diễn biến hòa bình, đây là “chiến thuật đổi màu” của các thế lực thù địch, cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Đảng và Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Đối với lớp trẻ nói chung, họ thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, nhưng  chủ yếu nhằm tác động trực tiếp vào lối sống và văn hóa của giới trẻ. Trong đó, một lối sống hào nhoáng “được phô trương khắp nơi qua phim ảnh, sách báo, truyền hình… Những điều được phô trương, như cuộc sống tự do, không bị gò bó, có khả năng kiếm tiền và thỏa mãn những nhu cầu trần tục, đã có sức hút lớn đối với thanh niên. Đây là lớp người chưa được thử thách, chưa có kinh nghiệm sống, chưa được rèn luyện trong nhiều hoạt động thực tiễn, rất nhạy cảm với thị hiếu “mới”. Đây cũng là đối tượng chủ yếu, quyết định chiến thuật đổi màu nhằm vào. Những tác động nhẹ nhàng hàng ngày sẽ làm hình thành ở họ những tình cảm, thái độ, quan niệm sống thực dụng, chạy theo những lợi ích vật chất, xa rời các giá trị tinh thần và mục tiêu cách mạng chân chính” [Báo chí trong đấu tranh chống diễn biến hòa bình, tr 34, NXB Chính trị Quốc gia, 2000]. Chiến thuật này diễn ra trong nhiều giai đoạn. Trong đó Giai đoạn diễn biến chậm: là giai đoạn đầu tiên, kéo dài nhất. “Trong giai đoạn này người ta sử dụng tất cả các phương tiện, hình thức, thủ thuật và nội dung thông điệp có thể có tác động vào đời sống xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm tạo ra sự thay đổi dần dần về nhận thức, dẫn đến sự thay đổi về quan điểm, thái độ, lập trường chính trị - xã hội. Trên thực tế, những tác động có chủ định từ phía đối lập gặm nhấm, làm đổi màu dần tư tưởng, tình cảm của từng con người cụ thể, Đối tượng được quan tâm tập trung nhiều nhất là lớp người trẻ - những chủ nhân tương lai. Trong quá trình diễn biến chậm, người ta luôn tìm cách gây dựng, nuôi dưỡng một số nhân vật đối lập nổi tiếng làm nòng cốt; nhân mối để kêu gọi, tập hợp lực lượng. Nhân vật đối lập lý tưởng thường là một nhân vật trong chính giới hoặc sa sút phẩm chất” [Báo chí trong đấu tranh chống diễn biến hòa bình, tr 45, NXB Chính trị Quốc gia, 2000].

Nhân vật đối lập lý tưởng thường là một nhân vật trong chính giới hoặc sa sút phẩm chất mà các cuốn sách thường đề cập ở đây chính là các Đảng viên trẻ. Bởi vì, họ là những người ưu tú nhất trong những thanh niên ưu tú, có lòng yêu nước nhiệt thành, có phẩm chất đạo đức và tài năng. Trước những Đảng viên trẻ, đối sách của những thế lực này cũng có những chuyển biến rõ rệt. Bởi vì, người Đảng viên trẻ không dễ bị tác động, lung lạc bởi ngoại cảnh từ lối sống thực dụng, ưa vật chất, phù phiếm, hời hợt của một bộ phận thanh thiếu niên đang diễn ra trong xã hội. Thay vào đó, những cá nhân, tổ chức này lợi dụng tinh thần yêu nước sục sôi, cháy bỏng của một số Đảng viên trẻ để dẫn lối họ vào những quan niệm, suy nghĩ lệch lạc về Đảng và Chính phủ. Ở đó, chúng áp dụng chiến thuật từng thu được kết quả ở các nước khối xã hội chủ nghĩa cũ mà tiêu biểu là sự sụp đổ của Liên Xô.

Trong Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc từng thẳng thắn chỉ ra rằng “Lý luận và lịch sử có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ nên cấm chúng ta học, cấm chúng ta xem, cho nên đồng bào ta đối với hai chữ cách mệnh còn lờ mờ lắm”. Trong bối cảnh mới, những thế lực thù địch kia lại chọn giải pháp ngược lại. Họ tung các lý thuyết về tự do cá nhân theo mô hình dân chủ tư sản, các lý thuyết bộ máy nhà nước theo cơ chế đa nguyên đa đảng, những quan niệm phủ nhận lịch sử. Dưới lá bài tự do học thuật, họ không ngừng tổ chức các cuộc thảo luận công khai, bán công khai về những học thuyết, tư tưởng mà chính những quốc gia tư bản phương Tây đến nay cũng phủ nhận, từ bỏ. Thậm chí, họ còn lập lờ trong các khái niệm của nhiều cuốn sách, dẫn đến người đọc trở rơi vào trạng thái mông lung, hồ nghi. Trường hợp gần đây, có thể kể đến cuốn Luật pháp của C.F. Bastiat (NXB Trí thức, 2016), một nhà triết gia không tưởng với những quan niệm “phản động” với quy luật phát triển của nhân loại.

Song song với điều đó, là sự thiếu vắng các công trình dịch thuật quan trọng và mới nhất về chủ nghĩa Marx Lenin ở nước ta. Chính xác hơn, nhiều công trình mới chỉ tồn tại ở mặt bản thảo, bản lưu hành nội bộ phục vụ cho một số học giả, chuyên gia đầu ngành về chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước sự chênh lệch ấy, nhất là khi những đầu sách có nội dung xấu, đi ngược giá trị nhân loại lại được quảng bá bởi một số học giả có tài nhưng không có đức như hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên trẻ không khỏi lung lạc, mất niềm tin vào Đảng và Đất nước. Nhất là khi nhìn vào bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, Việt Nam vẫn là một quốc gia đang phát triển chưa thể so sánh với các cường quốc, đế quốc trên thế giới. Chỉ nhìn từ hiện tượng, chú trọng đến hiện tượng, nhiều đảng viên trẻ đã không khỏi mắc những sai lầm nhất là khi những kẻ xấu liên tục xuyên tạc, tách rời câu nói, phát biểu của các lãnh đạo Việt Nam khỏi bối cảnh, nội dung bài viết, bản báo cáo. Họ liên tục nhai đi nhai lại, cố tình khiến nhiều người lầm lẫn ý nghĩa của những câu nói như: Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?, Thà nghèo mà yên bình còn hơn giàu mà không an toàn vv. Trước cái giàu có tráng lệ, huy hoàng của nhiều quốc gia tư bản, nhiều Đảng viên đã quên mất rằng thế kỷ XVIII, XIX giới siêu giàu còn có quyền lực ghê gớm đến mức nào. Trong khi tại thời điểm đó, Chủ nghĩa cộng sản, Nhà nước vô sản chuyên chính mới chỉ tồn tại trong những khái niệm lý thuyết. Thế nhưng, thế kỷ XX, thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Liên Xô đã biến những “học thuyết không tưởng” ấy thành hiện thực. Sau sự sụp đổ của nhiều quốc gia thuộc hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, trên các tờ báo, diễn đàn chống cộng cực đoan ngày nào cũng ra rả về ngày tàn của Chủ nghĩa Cộng sản trên đất nước Việt Nam và những con số dự đoán bị sửa đổi liên tục. Bởi vì, họ đâu nhìn từ thực tế là kinh tế Việt Nam đã thay đổi chóng mặt so với chính bản thân mình trong quá khứ. Trong đầu của những kẻ chống cộng chỉ tồn tại những hình ảnh về Sài Gòn của chế độ cũ mà họ ca ngợi là Hòn ngọc Viễn Đông. Họ đâu dám nhìn vào sự thật là Hòn ngọc ấy được xây dựng từ tiền bạc của những thế lực ngoại bang. Họ chưa từng công khai những sự thật mà TS Nguyễn Tiến Hưng (sinh 1935)  từng công bố trong cuốn sách tai tiếng Khi đồng minh tháo chạy là dự kiến đến năm 1976 thì Chính quyền Sài Gòn mới có thể tự chủ về mặt lúa gạo sau nhiều năm ăn gạo viện trợ từ Hoa Kỳ.

Bên cạnh việc tuyên truyền về đa nguyên đa đảng, về tam quyền phân lập theo mô hình của một số quốc gia tư bản, đám người này còn khéo léo tuyên truyền một thứ tự do cá nhân, chủ nghĩa anh hùng cá nhân vào nhiều đảng viên trẻ. Mục đích của họ là phủ định, xuyên tạc sự tồn tại của tự do cá nhân theo chủ nghĩa Marx, Lenin. Họ ca ngợi tinh thần chủ nghĩa tự do cá nhân, nhưng thực chất là kích thích, khuyến khích lòng kiêu ngạo, ích kỷ của một bộ phận cán bộ, đảng viên trẻ. Những hiện tượng gần đây như đảng viên trẻ từ chối nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng… để tập trung vào “công việc chuyên môn” cho thấy tâm lý ích kỷ, tự cao, tự đại đang ẩn chứa trong suy nghĩ của họ. Mặt khác, chúng cho thấy nhiều người gia nhập Đảng chỉ vì xu thời, thực dụng. Mục đích của họ không phải cống hiến sức lực, tài năng cho đất nước mà chỉ bo bo ôm lấy những lợi ích cá nhân của bản thân. Bị khiển trách, cảnh cáo, họ không có biểu hiện hối cải, thành khẩn thay đổi. Ngược lại, bị một số kẻ kích động, họ trở thành những đối tượng bất mãn, chống chế độ từ lúc nào mà không hay. Tương tự, họ kích động những Đảng viên trẻ tuổi khiến nhiều người lung lạc trước quan điểm yêu nước, nhưng không theo Đảng Cộng sản, hạ thấp Chủ nghĩa Marx Lenin khi cho rằng đây chỉ là một học thuyết như nhiều học thuyết triết học chính trị khác; hoặc họ tung hô Đảng Cộng sản là một Đảng chuyên chính có thể chiến thắng ngay cả khi có sự hiện diện của các đảng phái khác. Như vậy, họ có thể thực hiện một mũi tên trúng hai đích. Với những Đảng viên trẻ bi quan, chưa thực sự tin vào Đảng, những lý thuyết này khiến họ tiếp tục rơi sâu vào trạng thái mơ hồ, mâu thuẫn. Ngược lại, chúng lại khiến một bộ phận Đảng viên trẻ có tư tưởng chủ quan, xem thường những cuộc cách mạng màu đang diễn ra ở khắp các châu lục trên thế giới. Thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành chính đảng duy nhất tại Việt Nam là một tất yếu lịch sử, không thể phủ định, thay đổi. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đại diện của các tầng lớp nhân dân lao động, của toàn thể dân tộc. Như vậy, lợi ích mà Đảng đem lại không đi ngược với lợi ích của toàn thể nhân dân như nhiều thế lực phản động cáo buộc. Vậy đòi đa nguyên, đa đảng phải chăng chỉ là cái cớ để một số thành phần bất mãn, thế lực thù địch, các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí Việt Nam có cơ hội len chân vào bộ máy nhà nước, phá hoại nền độc lập, tự do của quốc gia, dân tộc. Thật vậy, nhìn vào tiểu sử của các nhà hoạt động nhân quyền, nhà báo độc lập tại Việt Nam, có thể khẳng định tính không chính đáng trong những thách thức như vậy. Cuối cùng, trong những cuộc bầu cử được tổ chức công bằng, dân chủ, Đảng Cộng sản chắc chắn sẽ trở thành chính đảng chiến thắng. Nhưng trước sự can thiệp của những thế lực thù địch, nhất là thế lực ngoại bang, ngoại xâm, có lợi ích kinh tế lớn, Đảng Cộng sản phải tỉnh táo, kiên quyết không thỏa hiệp, nhượng bộ trước những mưu đồ trên.

Trên một phương diện khác, việc Đảng và Nhà nước khuyến khích, trọng dụng nhân tài cũng bị một số đối tượng chống phá lợi dụng. Dưới chiêu bài tung hô thần tượng, họ đưa các đảng viên, cán bộ, trí thức trẻ vào tròng bằng các bài phỏng vấn có tính chất xưng tụng, đề cao ý kiến cá nhân, xem đó là “lời vàng thước ngọc”. Vốn biết những thành phần ưu tú này chưa có vốn sống, hiểu biết đầy đủ về các hiện tượng văn hóa, xã hội, nhiều tờ báo như BBC, VOA, RFA, RFI đã khéo mớm cho những giáo sư nọ, nhân sĩ kia phát biểu những lời tiêu cực, bi quan, bôi đen hiện thực. Khẩu hiệu Tự do báo chí cũng được đám người chống cộng lợi dụng triệt để. Bên cạnh chiến lược phản thông tin  được những người này sử dụng trên những tờ báo, trang mạng, diễn đàn chống cộng, thiếu thiện chí với Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam, họ còn lợi dụng tính định hướng thông tin còn hạn chế của một số tờ báo trong nước để xuyên tạc, bóp méo nhiều hiện tượng văn hóa, kinh tế, xã hội. Đây không hẳn là những thông tin sai, nhưng đã bị phóng đại, đi sai bản chất do nhận thức còn hời hợt, dựa trên cảm tính hơn là phân tích thấu đáo, hợp lý của một bộ phận phóng viên, trong đó có không ít người trẻ tuổi. Chia sẻ những thông tin như vậy, một mặt nhóm người xấu tiếp tục rêu rao về những quan điểm sai trái mà họ gán cho Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mặt khác, họ lại “vô can” khi không phải là tác giả trực tiếp của những bài báo, phóng sự ấy. Ngược lại, một số phóng viên được ca ngợi bằng những mĩ từ giả dối như anh hùng tranh đấu vì sự thật, đã vô tình trở thành nước cờ trên bàn cờ chính trị của những tổ chức này. 

Như vậy, trở thành cán bộ, đảng viên trẻ là niềm vinh dự của những thanh niên ưu tú nhất trong lực lượng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nhưng đi kèm với đó, cũng là nhiều trách nhiệm quan trọng được Đảng Cộng sản Việt Nam và Đoàn thanh niên tín nhiệm, giao phó. Nhiệm vụ ấy càng trở nên khó khăn, gập ghềnh hơn khi họ phải đối mặt với các thế lực thù địch, cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Đảng, Nhà nước Việt Nam.  Trong đó, quan niệm Ta- Bạn Bè – Kẻ thù không phải lúc nào cũng rõ ràng, chính xác tuyệt đối, nhưng các nguy cơ cuộc chiến chống diễn biến hòa bình, chống tự chuyển hóa là hoàn toàn có thật, đang diễn ra ngày phức tạp trong các bối cảnh, tình thế mới. Trong khi đó, cán bộ, Đảng viên trẻ mới bước ra khỏi ghế nhà trường, có nhiều kinh nghiệm hoạt động đoàn thanh niên, nhưng chừng đó là chưa đủ để đối mặt với những diễn biến, khó khăn, thách thức mới. Những lớp học bồi dưỡng cho đối tượng cảm tình Đảng mới chỉ khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội; nhưng chưa đề cập nhiều về những thách thức, khó khăn mà Đảng đang đối mặt. Bởi vậy, việc tăng cường các lớp học an ninh quốc phòng, các buổi sinh hoạt ngoại khóa về lịch sử Việt Nam, lịch sử chiến tranh cách mạng là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, những thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã thu được từ Tự do ngôn luận, Tự do báo chí cần tiếp tục được giữ vững, phát huy. Tuy nhiên việc phát hành các tác phẩm có nội dung “phản động” với tiến trình tiến hóa của nhân loại, cần phải được xem xét, chú thích, lý giải trên tinh thần phê phán cao độ để độc giả trẻ, nhất là các Đảng viên lứa tuổi mười tám, đôi mươi có sự tự nhận thức một cách đứng đắn, khách quan. Bên cạnh đó, cần phải đẩy mạnh xuất bản các tạp chí, đầu sách về xây dựng Đảng, Chủ nghĩa Marx Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng sản nổi tiếng, uy tín trên thế giới khác. Phải đặt những tác phẩm này vào vị trí trung tâm, không thể nhìn nhận “ngang hàng”, hạ thấp các tác phẩm kinh điển, tư tưởng tiến của Marx, Engel, Lenin chỉ là một học thuyết triết học chính trị thông thường như các học thuyết khác. Cùng với đó là việc tích cực phát hành các tạp chí Marxist cho lứa tuổi thanh niên với khuynh hướng tự do học thuật theo chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vì, tranh luận công khai chính là một phương cách trao đổi, tiếp nhận trực tiếp giữa các đảng viên trẻ với các học giả Marxist, đảng viên lão thành. Hơn nữa, chúng biến các phương thức học tập theo Chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên trực quan, sinh động, thực tế. Nhận biết trực tiếp các hạn chế trong quan điểm, tư tưởng của mình cũng là phương pháp tốt để người Đảng viên trẻ không sa vào các chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cá nhân v.v... Cuối cùng muốn chống lệch lạc, suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên trẻ hiện nay, cần hơn hết những buổi sinh hoạt có chất lượng trong chi bộ, các cấp ủy Đảng. Bởi lẽ, các đảng viên trong chi bộ Đảng chính là những người trực tiếp làm việc, sinh hoạt cùng, sớm phát hiện các biểu hiện lệch lạc, sai trái, suy đồi của đảng viên trẻ. Vừa trao đổi trên tư cách người thầy, cấp trên, đồng nghiệp, vừa trao đổi trên kinh nghiệm của đảng viên lâu năm, những đảng viên lớn tuổi chính là điểm tựa vững chắc cho các đảng viên trẻ hoàn thiện mình.

Trong công việc với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tuổi tác không phải là tiêu chí đánh giá phẩm chất, tài năng, khả năng cống hiến của mỗi đảng viên. Dẫu vậy, người đảng viên trẻ tuổi vẫn có những hạn chế cố hữu xuất phát từ độ tuổi, thiếu kinh nghiệm, bản lĩnh cách mạng. Chỉ có sự chỉ đạo, động viên, kèm cặp của những đảng viên lớn tuổi, giàu kinh nghiệm mới có thể giúp họ tránh khỏi những sai lầm, có cơ hội đóng góp tài năng, trí lực của mình cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng cho nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.         Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Tập 11, NXB Chính trị Quốc gia, 2011

2.         PGS. TS Vũ Hiền – PGS. TS Trần Quang Ninh, Báo chí trong đấu tranh chống diễn biến hòa bình, NXB Chính trị Quốc gia, 2001

3.         Dương Thông, Một số vấn đề về “diễn biến hòa bình” và chống “diễn biến hòa bình” ở nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, 1994

Hải Đăng