Gartner xác định 10 xu hướng công nghệ chiến lược hàng đầu năm 2014

Diễn đàn - Ngày đăng : 21:58, 03/11/2015

Chúng tôi đã xác định 10 công nghệ hàng đầu mà các công ty nên cân nhắc trong quá trình lập kế hoạch chiến lược của họ, chuyên gia David Cearley chia sẻ. Điều này không có nghĩa là bạn phải tiếp nhận và đầu tư tất cả các công nghệ trong danh sách, nhưng các công ty nên cân nhắc để đưa ra quyết định chủ động trong hai năm tới.

SINGAPORE, tháng 01 năm 2014 – Công ty Gartner Inc nhấn mạnh 10 công nghệ và xu hướng  hàng đầu mang tính chiến lược với hầu hết các tổ chức, công ty trong năm 2014. Các chuyên gia phân tích của Gartner trình bày những phát hiện của mình trong Sự kiện Dự báo 2014 diễn ra trên toàn cầu trong tháng 01/2014.

Gartner định nghĩa một công nghệ chiến lược là công nghệ có khả năng tác động mạnh mẽ đến doanh nghiệp trong ba năm tới. Các yếu tố thể hiện sự tác động mạnh mẽ bao gồm tiềm năng mạnh mẽ trong việc đột phá khối Công nghệ thông tin hay doanh nghiệp, cần một khoản đầu tư lớn, hoặc rủi ro cao nếu chậm áp dụng.

Một công nghệ chiến lược có thể là công nghệ hiện tại đang trưởng thành và/ hoặc phù hợp cho nhiều mục đích sử dụng rộng hơn. Đó cũng có thể là một công nghệ mới nổi đem lại lợi thế cạnh tranh chiến lược cho các doanh nghiệp sớm triển khai hoặc có tiềm năng đột phá thị trường trong năm năm tới. Những công nghệ ảnh hưởng đến kế hoạch dài hạn, các chương trình và sáng kiến của công ty, tổ chức.

"Chúng tôi đã xác định 10 công nghệ hàng đầu mà các công ty nên cân nhắc trong quá trình lập kế hoạch chiến lược của họ", chuyên gia David Cearley chia sẻ. "Điều này không có nghĩa là bạn phải tiếp nhận và đầu tư tất cả các công nghệ trong danh sách, nhưng các công ty nên cân nhắc để đưa ra quyết định chủ động trong hai năm tới."

Ông Cearley khẳng định chuỗi xu hướng (the Nexus of Forces) - sự hội tụ của bốn xu hướng mạnh mẽ: xã hội, di động, điện toán đám mây và thông tin, tiếp tục thúc đẩy sự thay đổi và tạo ra những cơ hội mới, tạo ra nhu cầu về cơ sở hạ tầng lập trình tiên tiến có thể thực hiện theo mạng lưới.

10 xu hướng công nghệ chiến lược hàng đầu năm 2014 bao gồm:

Sự đa dạng và quản lý thiết bị di động

Cho tới năm 2018, sự đa dạng ngày càng rõ rệt của các thiết bị, các dạng máy tính, sử dụng bối cảnh và các mô hình tương tác khiến chiến lược "tất cả mọi thứ ở khắp mọi nơi" không thể thực hiện được. Hậu quả không mong muốn là chính sách “sử dụng thiết bị riêng” (Bring your own device – BYOD) tăng gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba lần lực lượng lao động di động. Điều này dẫn tới nhiều căng thẳng cho bộ phận CNTT và tài chính. Các chính sách của doanh nghiệp về việc sử dụng phần cứng thuộc sở hữu cá nhân của nhân viên cần được xem xét kỹ lưỡng và cập nhật, mở rộng khi cần thiết. Hầu hết các công ty chỉ cho phép nhân viên truy cập mạng của mình thông qua các thiết bị mà doanh nghiệp sở hữu và quản lý. Hãy ban hành chính sách nhằm xác định rõ các kỳ vọng về những gì họ có thể và không thể làm. Cân bằng giữa linh hoạt với các yêu cầu bảo mật và riêng tư chặt chẽ.

Các ứng dụng di động (apps) và hệ ứng dụng (applications)

Gartner dự báo tới năm 2014, việc cải thiện hoạt động hiệu quả của JavaScript sẽ khiến HTML5 và trình duyệt này đi sâu vào môi trường phát triển hệ ứng dụng doanh nghiệp. Gartner khuyến cáo rằng các lập trình viên tập trung vào việc tạo ra các mô hình giao diện người dùng phong phú hơn với thoại và video giúp kết nối mọi người theo những cách mới và đa dạng. Ứng dụng sẽ tiếp tục tăng trong khi các hệ ứng dụng sẽ bắt đầu co lại. Các ứng dụng nhỏ hơn, và tập trung hơn, trong hệ ứng dụng lớn và toàn diện hơn. Lập trình viên nên gắn kết các ứng dụng để tạo các hệ ứng dụng lớn hơn. Việc phát triển các giao diện người dùng hệ ứng dụng có thể chạy trên các thiết bị khác nhau đòi hỏi sự hiểu biết các khối phân tán và một cấu trúc lập trình thích nghi giúp tập hợp chúng vào nội dung tối ưu hóa cho mỗi thiết bị. Thị trường công cụ tạo ra các ứng dụng tương tác người dùng và doanh nghiệp khá phức tạp với hơn 100 nhà cung cấp tiềm năng. Trong những năm tiếp theo không có công cụ duy nhất tối ưu với tất cả các loại ứng dụng di động, nên kỳ vọng sẽ phải triển khai một số. Sự thay đổi kế tiếp về trải nghiệm người dùng sẽ là việc phát huy ý định, suy luận từ cảm xúc và hành động, để thúc đẩy thay đổi hành vi của người dùng cuối.

Mạng Internet của mọi thứ (The Internet of Everything)

Internet đang vượt ra khỏi biên giới của máy tính cá nhân và các thiết bị di động cũng như các tài sản doanh nghiệp khác như thiết bị hiện trường, và các mặt hàng tiêu dùng như xe hơi và TV. Vấn đề là hầu hết các doanh nghiệp và các nhà cung cấp giải pháp công nghệ vẫn chưa khám phá hết tiềm năng của việc mở rộng internet và chưa sẵn sàng về công nghệ hay vận hành. Hãy tưởng tượng việc số hóa hầu hết các sản phẩm, dịch vụ và tài sản trọng yếu. Sự kết hợp của các dòng dữ liệu và dịch vụ được tạo ra bởi việc số hóa tất cả mọi thứ dẫn tới bốn mô hình sử dụng cơ bản - Quản lý; Tiền tệ hóa; Vận hành; Mở rộng. Bốn mô hình cơ bản này có thể áp dụng cho bất kỳ yếu tố trong bốn thành tố trong mạng lưới "internets" (con người, sự vật, thông tin và địa điểm). Các doanh nghiệp không nên giới hạn mình vào suy nghĩ rằng chỉ có mạng internet của mọi vật (Internet of Things) (ví dụ, tài sản và máy móc) mới khả năng phát huy bốn mô hình này. Tất cả các doanh nghiệp từ mọi ngành nghề (công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, v.v.) đều có thể áp dụng các mô hình.

Dịch vụ điện toán đám mây lai (Hybrid Cloud) và CNTT giống như nhà môi giới dịch vụ

Việc kết hợp các dịch vụ điện toán đám mây cá nhân (private cloud) với đám mây riêng (private cloud) bên ngoài là điều bắt buộc. Các doanh nghiệp nên thiết kế các dịch vụ điện toán đám mây riêng với hình dung về dạng hỗn hợp/ lai (hybrid) trong tương lai và đảm bảo việc có thể tích hợp/ khả năng tương tác trong tương lai. Các dịch vụ điện toán đám mây lai có thể được tạo theo nhiều cách, từ tĩnh đến động. Việc quản lý sự kết hợp này thường là trách nhiệm của vị trí “môi giới dịch vụ điện toán đám mây” (CSB – cloud service broker), gồm việc xử lý tổng hợp, tích hợp và điều chỉnh theo yêu cầu các dịch vụ. Các doanh nghiệp mở rộng sang điện toán đám mây lai từ các dịch vụ điện toán đám mây riêng đang nhận lấy vai trò CSB. Các thuật ngữ như “thấu chi” (overdrafting) và "mưa rào” (cloudbursting) thường được sử dụng để mô tả những gì lai điện toán đám mây có thể làm được. Tuy nhiên, phần lớn các dịch vụ điện toán đám mây lai ban đầu sẽ ít năng động hơn thế. Các dịch vụ điện toán đám mây ban đầu có thể sẽ tĩnh hơn, gắn kết về mặt kỹ thuật (như tích hợp giữa một đám mây riêng nội bộ với một dịch vụ đám mây công cộng cho các chức năng hay dữ liệu nhất định). Nhiều sự kết hợp triển khai sẽ xuất hiện khi CSB thay đổi (chẳng hạn, dịch vụ cơ sở hạ tầng riêng [IaaS] có thể tận dụng các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài dựa trên chính sách và việc sử dụng).

Kiến trúc Đám mây/ Khách hàng

Các mô hình điện toán đám mây/ khách hàng đang thay đổi. Trong kiến ​​trúc điện toán đám mây/ khách hàng, khách hàng là một hệ ứng dụng phong phú chạy trên một thiết bị kết nối Internet, và máy chủ là một tập hợp các dịch vụ hệ ứng dụng đặt trên một nền tảng điện toán đám mây ngày càng mở rộng khả năng đàn hồi. Đám mây là điểm kiểm soát và hệ thống hoặc ghi lại và các hệ ứng dụng có thể kéo dài nhiều thiết bị khách hàng. Môi trường khách hàng có thể là một hệ ứng dụng gốc (native app) hoặc dựa trên trình duyệt; sức mạnh ngày càng lớn của trình duyệt là sự có sẵn cho nhiều thiết bị người dung, cho thiết bị di động cũng như máy tính để bàn. Các năng lực mạnh mẽ trên nhiều thiết bị di động, nhu cầu tăng lên trên mạng lưới, chi phí mạng lưới và nhu cầu quản lý việc sử dụng băng thông tạo ra các ưu đãi, trong một số trường hợp, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của hệ ứng dụng và lưu trữ điện toán đám mây, và khai thác thông tin có ích và lưu trữ thiết bị người dùng. Tuy nhiên, nhu cầu ngày càng phức tạp của người sử dụng thiết bị di động sẽ thúc đẩy các ứng dụng đòi hỏi số lượng ngày càng lớn năng lực điện toán từ máy chủ và dung lượng lưu trữ.

Kỷ nguyên của điện toán đám mây cá nhân

Kỷ nguyên điện toán đám mây cá nhân sẽ đánh dấu một sự thay đổi quyền lực từ các thiết bị sang các dịch vụ. Trong thế giới mới này, các thông số cụ thể của thiết bị sẽ trở nên kém quan trọng với các công ty, tổ chức để phải lo lắng, mặc dù các thiết bị vẫn cần thiết. Người dùng sẽ sử dụng một tập hợp các thiết bị, và máy tính cá nhân chỉ là một trong nhiều lựa chọn, nhưng không một thiết bị nào là trung tâm nữa. Thay vào đó, điện toán đám mây cá nhân sẽ đảm nhận vai trò đó. Việc truy cập các đám mây này và nội dung lưu trữ hay chia sẻ từ đám mây sẽ được quản lý và bảo mật, hơn là chỉ tập trung vào thiết bị.

Mọi thứ điều khiển bằng phần mềm

Mọi thứ điều khiển bằng phần mềm (SDx – Software-defined anything) là một thuật ngữ chung để chỉ động lực cho thị trường đang phát triển về các tiêu chuẩn cải thiện lập trình cơ sở hạ tầng và khả năng tương tác trung tâm dữ liệu do việc tự động hóa gắn liền với điện toán đám mây, DevOps và cung cấp cơ sở hạ tầng nhanh chóng. Như một tập hợp, SDx cũng kết hợp các sáng kiến ​​khác nhau như OpenStack, OpenFlow, Open Compute Project và Open Rack, chia sẻ những lý tưởng chung. Là một công nghệ SDx cá nhân, silo thay đổi và các tập đoàn phát sinh, tìm kiếm các tiêu chuẩn mới nổi và gắn kết năng lực có lợi cho các danh mục, nhưng thách thức các nhà cung cấp công nghệ cá nhân thể hiện cam kết với các tiêu chuẩn về khả năng tương tác thực sự trong lĩnh vực cụ thể. Trong khi sự cởi mở luôn là mục tiêu mà các nhà cung cấp tuyên bố, việc định nghĩa SDx có thể rất khác nhau, là bất cứ thứ gì nhưng phải “mở”. Tất cả các nhà cung cấp công nghệ SDN (mạng), SDDC (trung tâm dữ liệu), SDS (lưu trữ), và SDI (cơ sở hạ tầng) cố gắng duy trì vai trò lãnh đạo trong các lĩnh vực tương ứng, trong khi việc triển khai các sáng kiến ​SDx để hỗ trợ theo kịp thị trường. Vì vậy, các nhà cung cấp chiếm lĩnh một khu vực cơ sở hạ tầng chỉ có thể miễn cưỡng phải tuân theo các tiêu chuẩn có tiềm năng giảm lợi nhuận và mở ra cơ hội cạnh tranh lớn hơn, ngay cả khi người tiêu dùng được hưởng lợi bởi sự đơn giản, chi phí thấp hơn và hiệu quả hợp nhất.

CNTT trên nền tảng Web (web scale IT)

CNTT trên nền Web là một mô hình của điện toán toàn cầu mang lại khả năng cung cấp các dịch vụ đám mây lớn trong môi trường CNTT doanh nghiệp bằng việc cân nhắc các vị trí theo nhiều khía cạnh. Các nhà cung cấp dịch vụ đám mây lớn như Amazon, Google, Facebook, v.v. được tái tạo lại cách cung cấp dịch vụ CNTT. Năng lực của họ vượt xa cả về khuôn khổ và bao gồm cả quy mô khi gắn liền với tốc độ và sự nhạy bén. Nếu các doanh nghiệp muốn đuổi kịp, họ cần phải mô phỏng các kiến trúc, quy trình và thực tiễn của các nhà cung cấp đám mây chuẩn mực này. Gartner gọi sự kết hợp của tất cả các yếu tố này là CNTT trên nền tảng web (web scale IT). CNTT trên nền tảng web tìm kiếm thay đổi chuỗi giá trị CNTT theo một cách hệ thống. Các trung tâm dữ liệu được thiết kế dưới góc độ kỹ thuật công nghiệp tìm kiếm từng cơ hội để giảm chi phí và lãng phí. Điều này vượt xa khỏi các cơ sở tái thiết kế về năng lượng hiệu quả và cũng bao gồm thiết kế tự tạo của các thành phần phần cứng trọng yếu chẳng hạn như các máy chủ, ổ lưu trữ và các mạng lưới. Các kiến trúc định hướng web cho phép các nhà lập trình phát triển các hệ thống rất linh hoạt và mềm dẻo có thể phục hồi sau thất bại nhanh hơn.

Máy thông minh

Đến năm 2020, thời đại máy của máy thông minh sẽ nở rộ với sự gia tăng của các máy hỗ trợ phù hợp với bối cảnh, trợ lý cá nhân thông minh, cố vấn thông minh (như IBM Watson), các hệ thống công nghiệp toàn cầu tiên tiến và sự sẵn có công cộng ví dụ như xe tự lái. Thời đại máy thông minh sẽ có tính đột phá nhất trong lịch sử CNTT. Các hệ thống mới bắt đầu cho thấy những viễn cảnh ban đầu về những gì CNTT có thể làm được - những gì chúng ta nghĩ chỉ có con người có thể làm và máy thì không - giờ đã xuất hiện. Gartner dự báo các cá nhân sẽ đầu tư, kiểm soát và sử dụng máy thông minh của mình để thành công hơn. Các doanh nghiệp tương tự sẽ đầu tư vào máy móc thông minh. Việc tiêu dùng hóa hay căng thẳng trong bộ điều khiển trung tâm sẽ không giảm đi trong thời đại mà máy thông minh thúc đẩy đột phá. Dù có chuyện gì, máy thông minh sẽ tăng cường các lực lượng tiêu dùng hóa sau cú hích mua doanh nghiệp bắt đầu.

In 3-D

Doanh số bán máy in 3D trên toàn thế giới dự kiến ​​sẽ tăng 75% trong năm 2014, theo sau là mức tăng gần gấp đôi số lượng trong năm 2015. Mặc dù các thiết bị "sản xuất phụ gia" rất đắt đỏ đã có khoảng 20 năm, thị trường thiết bị chênh lệch từ $50,000 đến $500, và các chất liệu tương xứng và xây dựng năng lực còn non trẻ nhưng đang phát triển nhanh chóng. Mức đỉnh điểm thị trường tiêu dùng đã khiến các tổ chức, công ty hiểu rằng in 3D là thực tế có thật, một phương tiện khả thi và hiệu quả về chi phí để có được thiết kế tốt hơn, sắp xếp tạo mẫu hợp lý và sản xuất ngắn hạn.

(Nguồn Gartner)