MPLS - Công nghệ cho mạng trục của Mạng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam (VinaREN)
Diễn đàn - Ngày đăng : 21:38, 03/11/2015
Đến nay, VinaREN đã thực sự trở thành mạng nghiên cứu và đào tạo quốc gia của Việt Nam. VinaREN kết nối hơn 60 mạng thành viên, bao gồm hàng trăm viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện lớn tại 11 tỉnh và thành phố trong cả nước, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam kết nối mạng tốc độ và hiệu năng cao với 45 triệu đồng nghiệp tại hơn 8.000 trung tâm nghiên cứu và đào tạo trên thế giới.
Mạng trục của VinaREN được hình thành dựa trên các kênh kết nối 6 trung tâm vận hành mạng NOC (Network Operation Centre). Các thành viên mạng VinaREN được kết nối với các NOC ở tốc độ Fast Ethernet và hiện đang chạy nhiều ứng dụng tiên tiến tiêu thụ băng thông rất lớn nhưng lại đòi hỏi chất lượng dịch vụ cao hoạt động trong chế độ thời gian thực. Điều này dẫn đến việc VinaREN phải nghiên cứu lựa chọn công nghệ nên được áp dụng trên mạng trục của mình để nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ cho các đơn vị thành viên. Bài viết này sẽ đề cập đến việc lựa chọn công nghệ nên được áp dụng trên mạng trục VinaREN để tối ưu hoá chất lượng dịch vụ.
1. Mạng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam
Khi Internet phát triển rộng khắp toàn cầu phục vụ rộng rãi nhu cầu chia sẻ và cung cấp thông tin thì giới khoa học trên thế giới nhận thấy phải có những mạng riêng tốc độ cao mới có thể đáp ứng các công việc nghiên cứu khoa học trên qui mô lớn, do vậy mạng dành riêng cho hoạt động nghiên cứu đào tạo đã được hình thành ở các nước trên thế giới.
Không ngoài xu thế đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập quốc tế trong nghiên cứu và đào tạo ở Việt Nam, Thủ tướng chính phủ đã đồng ý cho Việt Nam tham gia dự án Mạng Thông tin Á-Âu giai đoạn II. Do vậy, VinaREN được ra đời và chính thức khai trương trên toàn quốc trong Hội nghị Mạng Nghiên cứu và Đào tạo Việt Nam lần thứ 3 tổ chức năm 2008 tại Thành Phố Hồ Chí Minh. VinaREN - kết quả triển khai thực hiện Dự án Mạng Thông tin Á-Âu giai đoạn II tại Việt Nam (viết tắt là TEIN2 VN) là mạng viễn thông dùng riêng cho giới nghiên cứu và đào tạo nhằm phục vụ nghiên cứu và đào tạo ở Việt Nam. VinaREN được kết nối với các mạng nghiên cứu và đào tạo của các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả, thúc đẩy hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tương tự các mạng nghiên cứu và đào tạo khác trên thế giới, mục tiêu chính của VinaREN là:
- Xây dựng và phát triển hạ tầng truyền thông tiên tiến, chất lượng cao để phục vụ nghiên cứu và đào tạo;
- Liên kết các mạng của các trung tâm nghiên cứu và đào tạo lớn trong cả nước, các bệnh viện lớn, các phòng thí nghiệm trọng điểm, các trường đại học và các trung tâm thông tin - thư viện quan trọng;
- Kết nối VinaREN với các mạng nghiên cứu và đào tạo của các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua TEIN và thông qua các mạng quốc tế khác;
- Tạo điều kiện thuận lợi về đường truyền, công nghệ, nội dung thông tin và chi phí kết nối cho các tổ chức nghiên cứu và đào tạo Việt Nam được kết nối vào mạng VinaREN;
- Thúc đẩy nghiên cứu bằng cách phát triển các dịch vụ mới và ứng dụng các công nghệ mạng tiên tiến ở Việt Nam.
Từ khi thành lập đến nay, VinaREN đã có rất nhiều hoạt động tích cực hỗ trợ cho cộng đồng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam. Tới nay, VinaREN đã thực sự trở thành mạng nghiên cứu và đào tạo Quốc gia của Việt Nam với 6 Trung tâm vận hành mạng NOC, kết nối hơn 60 mạng thành viên, bao gồm hàng trăm viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện lớn tại 11 tỉnh và thành phố trong cả nước, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam kết nối với 45 triệu đồng nghiệp tại hơn 8.000 trung tâm nghiên cứu và đào tạo trên thế giới.
Hiện nay, VinaREN đang từng bước triển khai các hoạt động để thực hiện trọng trách mới được giao là “mở rộng kết nối Mạng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam (VinaREN) tới 100% các Viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm trọng điểm, các trường đại học, các bệnh viện lớn, các trung tâm thông tin - thư viện quan trọng” như đã được nêu trong Chương trình hành động của Bộ Khoa học và Công nghệ Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 809/QĐ-BKHCN ngày 25/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ).
2.Hiện trạng mạng VinaREN
Mạng trục quốc gia của VinaREN được hình thành trên cơ sở kết nối 6 NOC đặt tại các thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Huế, Cần Thơ và Thái Nguyên như được mô tả ở Hình 1.
Với hệ thống mạng hiện có, VinaREN đang thiết lập định tuyến tĩnh và định tuyến động OSPF (Open Shortest Path First) trên toàn mạng. Tuy nhiên hiện tại trên mạng VinaREN còn chưa thực hiện thiết lập các kết nối mạng riêng ảo (VPN: IPSec, MPLS) và quản lý chất lượng dịch vụ (QoS) trên hệ thống. Điều này dẫn đến một số hạn chế sau:
- Chưa quản lý được chất lượng dịch vụ, do vậy khi một số dịch vụ thông thường làm tràn băng thông, hoặc khi có sự cố với các kênh kết nối trục thì các dịch vụ quan trọng sẽ bị ảnh hưởng, chạy chập chờn và không đảm bảo.
- Sử dụng thuần giao thức định tuyến động và tĩnh trên toàn mạng làm thời gian chuyển đổi kênh truyền từ kênh chính sang hướng dự phòng lâu. Điều này dẫn dến dịch vụ truy cập thời gian thực như Video, Voice sẽ bị gián đoạn khi có sự cố do các thiết bị định tuyến lõi phải tính toán và thiết lập lại bảng định tuyến.
- Việc điều khiển lưu lượng theo nhu cầu rất khó khăn do có rất nhiều tham số phải điều chỉnh kỹ thuật khi muốn thực hiện.
Hình 1: Sơ đồ kết nối mạng VinaREN
3.Công nghệ mạng trục cho VinaREN
Trong những năm gần đây, Internet đã phát triển rất nhanh và trở nên rất phổ biến. Internet đã trở thành một phương tiện thông tin rất hiệu quả và tiện lợi phục vụ cho giáo dục, thương mại, giải trí, thông tin giũa các cộng đồng, các tổ chức v.v... Hiện nay ngày càng phát triển các ứng dụng mới cả trong thương mại và thị trường người tiêu dùng. Các ứng dụng mới này khi vận hành đòi hỏi băng thông rộng với thông lượng phải được đảm bảo trên mạng trục. Cùng với các dịch vụ truyền thống được cung cấp qua Internet như web, mail thì các dịch vụ thoại và đa phương tiện đang được phát triển và sử dụng ngày càng nhiều. Do vậy sự lựa chọn cho việc cung cấp sẽ là tích hợp các dịch vụ.
Cũng giống như các mạng khác, lưu lượng trên mạng VinaREN chủ yếu là từ các ứng dụng người dùng, sử dụng các gói tin IP. Như đã đề cập ở trên các mạng IP rất mềm dẻo và dễ mở rộng nhưng IP là mạng không hướng kết nối (connectionless oriented), chuyển mạch gói (packet switch), do vậy sử dụng nó trên mạng trục sẽ gây ra độ trễ cao khi xử lý định tuyến tại các nút lõi. Trong khi đó nếu sử dụng các mạng hướng kết nối (connection oriented) để truyền tải lưu lượng tại mạng trục sẽ mang đến những lợi ích cho cả người sử dụng và nhà cung cấp.
Sở dĩ như vậy là vì các mạng hướng kết nối thiết lập kết nối trước khi thực hiện truyền thông tin. Ngược lại, trong các mạng không hướng kết nối thì không có kết nối được thiết lập trước khi truyền dữ liệu, thay vào đó các gói tin được định tuyến tới đích của nó dựa trên thông tin chứa ở phần đầu của gói tin. Tuy nhiên thông tin về các kết nối trong mạng hướng kết nối giúp cung cấp các đảm bảo dịch vụ và do vậy làm cho việc sử dụng tài nguyên mạng trở nên hiệu quả hơn (ví dụ như băng thông) bằng cách chuyển sang các kết nối phù hợp vì chúng đã được thiết lập. Như vậy, các mạng hướng kết nối cung cấp cho người dùng sự đảm bảo dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ có thể nâng cao khả năng sử dụng băng thông cũng như có thể mang các lưu lượng IP qua các mạng hướng kết nối khác nhau. Vì những lý do đó mà công nghệ áp dụng cho mạng trục nên là công nghệ mạng hướng kết nối. Ví dụ các mạng hướng kết nối bao gồm SONET/SDH, WDM, ATM và MPLS.
SONET và SDH là các chuẩn thiết kế từ đầu cho các hệ thống TDM (chiếm đa số vào những năm 1980). Sử dụng TDM, một luồng dữ liệu ở tốc độ cao hơn được tạo ra trực tiếp bằng cách ghép các kênh có tốc độ bit thấp hơn. Các hệ thống TDM dung lượng cao hoạt động ở tốc độ OC-192 hoặc 10 Gbps. Tuy nhiên sử dụng công nghệ SDH trên mạng trục thì sẽ gặp phải khó khăn khi muốn chuyển lên tốc độ lớn hơn do khả năng nâng cấp không linh hoạt và giá thành nâng cấp là tương đối đắt, khó triển khai các dịch vụ ứng dụng Multicast.
Kỹ thuật ghép kênh phân chia theo bước sóng WDM (Wavelength Division Mutiplexing) được coi là cuộc cách mạng về băng thông trong mạng xương sống Internet. Nó cho phép tăng dung lượng kênh mà không cần tăng tốc độ bit đường truyền cũng như không cần dùng thêm sợi dẫn quang. Nguyên lý cơ bản của ghép kênh theo bước sóng là ghép tất cả các bước sóng khác nhau của nguồn phát quang vào cùng một sợi dẫn quang nhờ bộ ghép kênh và truyền dẫn các bước sóng này trên cùng sợi quang. Khi đến đầu thu, bộ tách kênh quang sẽ phân tách để thu nhận lại các bước sóng đó. Có tới 160 bước sóng cho công nghệ WDM, với mỗi bước sóng là 40Gbps cho phép tổng dung lượng đường truyền có thể đạt là 6.4 Tbps. Nếu dùng công nghệ ghép kênh phân chia theo bước sóng mật độ cao DWDM (Dense WDM ) thì có thể có trên 1000 bước sóng, do vậy dung lượng truyền có thể đạt tới 50 Tbps. Công nghệ WDM có rất nhiều ưu điểm trong đó nổi bật nhất là khả năng truyền dẫn đồng thời tín hiệu không đồng nhất, hai chiều và với dung lượng lớn. Tuy nhiên WDM đòi hỏi khá nhiều thiết bị đắt tiền.
ATM (Asynchronous Transfer Mode) là công nghệ hướng kết nối, thiết lập các kênh ảo (virtual circuit), thiết lập các tuyến ảo (virtual path) tạo thành một mạng logic nằm trên mạng vật lý giúp định tuyến, phân bố tải đồng đều trên toàn mạng. Công nghệ ATM có tốc độ truyền tin cao, đảm bảo thời gian thực và chất lượng dịch vụ theo yêu cầu định trước. Do vậy sự kết hợp IP ở lớp truy nhập với ATM ở mạng trục là một giảp pháp cho mạng viễn thông. Tuy nhiên, IP và ATM là hai công nghệ, được thiết kế cho những môi trường mạng khác nhau, khác nhau về giao thức, cách đánh địa chỉ, định tuyến, báo hiệu, phân bổ tài nguyên v.v... Do vậy, khi mở rộng mạng theo hướng IP chạy qua ATM, việc quản lý mô hình này là rất phức tạp do phải duy trì hoạt động của cả hai hệ thống thiết bị.
Với yêu cầu về tốc độ và sự phát triển rất nhanh của Internet, cần phải có một giao thức mới đảm bảo được chất lượng dịch vụ theo yêu cầu đồng thời phải đơn giản và tốc độ xử lý cao. Xu hướng của các nhà khai thác là thiết kế và sử dụng các thiết bị định tuyến chuyên dụng, có dung lượng chuyển tải lớn, hỗ trợ các giải pháp tích hợp, chuyển mạch đa lớp cho mạng trục Internet. Nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh này dẫn tới sự ra đời của một công nghệ lai có khả năng kết hợp những đặc điểm tốt của chuyển mạch kênh ATM và chuyển mạch gói IP.
Công nghệ MPLS ra đời và phát triển đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường đúng theo tiêu chí phát triển của Internet, vì vậy nó đã mang lại những lợi ích thiết thực, đánh dấu một bước phát triển mới của Internet trước xu thế tích hợp công nghệ thông tin và viễn thông. Công nghệ MPLS đã cải tiến tính năng chuyển mạch của mạng IP hiện tại. Dữ liệu được truyền trên mạng MPLS dựa trên phương pháp gán nhãn mang các thông tin về vị trí cần đến, tối ưu việc định tuyến giữa các vị trí. Điều này dẫn đến dữ liệu truyền không cần dựa vào các bảng định tuyến trên các thiết bị định tuyến, từ đó nâng cao được tốc độ truyển tải dữ liệu trên mạng trục. Ngoài ra MPLS còn có thêm các tính năng đặc biệt quan trọng như điều khiển lưu lượng, mạng riêng ảo và chất lượng dịch vụ là các tiêu chuẩn quan trọng cần trong mạng IP.
ATM, SONET/SDH và WDM liên quan chủ yếu đến công nghệ truyền dẫn lớp 2 trên mạng trục. Mặt khác, các kênh truyền dẫn trên mạng trục của VinaREN hàng năm được thuê từ nhà cung cấp dịch vụ mạng trục ở Việt Nam, do vậy công nghệ truyền dẫn trên mạng trục của VinaREN phụ thuộc vào công nghệ mà nhà cung cấp dịch vụ mạng trục sử dụng. Được biết hiện tại công nghệ WDM (Wavelength Division Multiplexing) là công nghệ truyền dẫn trên mạng trục được hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ mạng trục ở Việt Nam sử dụng do những lợi thế đặc biệt của WDM trong việc cung cấp băng thông lớn trên một sợi quang dựa trên kỹ thuật ghép kênh quang theo bước sóng. Trong số các công nghệ mạng trục kể trên thì MPLS là công nghệ mà VinaREN hoàn toàn có thể chủ động sử dụng do nó hoạt động trên giao thức lớp 2 và lớp 3. Hơn nữa, hiện tại các thiết bị định tuyến 7609S ở mạng lõi của VinaREN đã sẵn sàng hỗ trợ công nghệ MPLS mà không đòi hỏi tốn chi phí nhiều cho sự nâng cấp. Điều này cho phép VinaREN có thể áp dụng công nghệ MPLS trong mạng trục của mình để khắc phục các hạn chế bất cập đã nêu trên. Đây cũng là công nghệ mà hầu hết các nhà mạng, các tổ chức trên thế giới hiện đang sử dụng và đã hoạt động hiệu quả trong thời gian qua. Đưa công nghệ MPLS vào sử dụng sẽ giúp cho VinaREN khai thác tối đa tính năng của các thiết bị định tuyến, đảm bảo tối ưu cho hệ thống hiện có, cung cấp các dịch vụ với độ bảo mật, chất lượng cao, hỗ trợ tối đa các đòi hỏi của các dịch vụ cao cấp hiện nay như DVTS, Video coferencing, E-learning, Voice over IP v.v...
4.Công nghệ MPLS và khả năng triển khai đối với VinaREN
MPLS (Multiprotocol Label Switching) là một công nghệ được đề xuất bởi Internet Engineering Task Force (IETF), nó được thiết kế để tạo thuận lợi cho một vài lĩnh vực trong Internet bao gồm cả hiệu suất định tuyến. MPLS ngày càng được chấp nhậnbởi nhiều nhà cung cấp dịch vụ sử dụng trong các mạng lõi của họ. Giải pháp MPLS được sử dụng cùng với giao thức lớp 2 và lớp 3. Nhãn là tên định danh có chiều dài cố định được sử dụng để chuyển tiếp các gói tin. Với MPLS, nhãn được gắn kèm với các gói tin tại điểm vào của mạng MPLS. Trong mạng, các nhãn được sử dụng để định tuyến các gói tin mà không cần xem xét phần đầu của gói tin gốc.
4.1 Kiến trúc MPLS
MPLS là công nghệ được sử dụng trong nhiều mạng của các nhà cung cấp dịch vụ. Ứng dụng MPLS phổ biến nhất sử dụng ngày nay là mạng riêng ảo MPLS VPN (Virtual Private Network) được phát triển để hoạt động trên các mạng MPLS, nhưng chúng cũng có thể chạy trên các mạng IP. Điều này cho phép các nhà cung cấp linh hoạt trong việc lựa chọn triển khai mạng, cải thiện khả năng mở rộng hệ thống định tuyến và tiếp cận rộng rãi hơn tới các khách hàng.
4.2 Định tuyến IP qua MPLS
Nhận thức tắc nghẽn: CoS (Class of Service) hỗ trợ trên cơ sở lưu lượng hoặc người sử dụng. Đây là điều không có trong mạng IP, mà cuối cùng kết quả là các tuyến đường bị tắc nghẽn. MPLS khắc phục vấn đề này với sự hỗ trợ của lớp chuyển tiếp tương đương FEC (Forwarding Equivalence Class). Giải pháp được cung cấp bởi IP để vượt qua vấn đề này là cân bằng tải. Tuy nhiên tiêu chí đơn giản trong việc phân chia lưu lượng dẫn đến vấn đề về khả năng mở rộng.
Khả năng mở rộng: Định tuyến IP đã gặp phải vấn đề khả năng mở rộng do cơ chế định tuyến. MPLS khắc phục hạn chế trong cân bằng tải của các mạng IP bằng cách đưa ra khái niệm FEC phân loại lưu lượng dựa theo yêu cầu.
Phục hồi tuyến đường IP: Khi một kết nối trong mạng IP bị sự cố, tốc độ phục hồi của nó phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thời gian để bộ định tuyến phát hiện ra kết nối bị hỏng; Phân tán thông tin này trên toàn mạng; Tính toán các bảng định tuyến mới tại toàn bộ thiết bị định tuyến và tìm kiếm các tuyến đường thay thế cho lưu lượng đi qua. Việc phục hồi tuyến đường của MPLS là tốt hơn IP vì nó đưa ra khái niệm ngăn xếp nhãn.
Kiến trúc điều khiển lưu lượng dựa trên MPLS: MPLS chuyển tiếp gói tin IP dọc theo con đường chuyển mạch nhãn (LSP – Label Switched Path) đã được xác định trước bao gồm một dãy các nút chuyển mạch nhãn. Điều này cho phép một gói tin đi từ bộ định tuyến chuyển mạch nhãn LSR (label switch router) này đến một LSR khác trong miền MPLS. LSR chuyển tiếp gói tin dựa trên trao đổi nhãn. Trong trao đổi nhãn, nhãn của một gói tin đến được kiểm tra, sau đó được sử dụng như một chỉ mục trong bảng chuyển tiếp MPLS. Kiến thức chi tiết của cấu trúc mạng và tải của mạng là cần thiết để đưa ra các quyết định điều khiển lưu lượng. Sau đó, cuối cùng là lựa chọn con đường thực hiện.
4.3 MPLS TE
MPLS được xem như một giải pháp lai, trong đó bao gồm cả các tính năng của IP. Tính năng nổi bật nhất của MPLS là khả năng phân tách mặt phẳng điều khiển với mặt phẳng dữ liệu, có nghĩa là kỹ thuật lưu lượng (TE - Traffic Engineering) hoàn toàn được kiểm soát bởi IP mà không cần bất kỳ sự hỗ trợ nào của các công nghệ lớp 2. Điều này tạo nên tính đơn giản của nó.
MPLS đóng một vai trò quan trọng trong việc giới thiệu mạng thế hệ sau (NGN) bởi nó trợ giúp các quyết định định tuyến thông minh. Không giống như định tuyến IP, dựa trên con đường ngắn nhất và địa chỉ IP đích. Các kỹ thuật được sử dụng bởi MPLS cho phép thực hiện việc định tuyến một cách hợp lý. MPLS điều khiển lưu lượng bằng cách cho phép lưu lượng trực tiếp đi qua một đường dẫn được xác định dựa trên định tuyến chi phí thấp nhất, tận dụng kết nối, độ trễ, jitter, và các yếu tố khác. Bằng việc triển khai kỹ thuật điều khiển lưu lượng trong mạng lõi, các nhà cung cấp dịch vụ có thể thực hiện các chính sách giúp đảm bảo việc phân phối lưu lượng tối ưu và cải thiện khả năng sử dụng mạng.
4.4 MPLS VPN
MPLS VPN có khả năng hỗ trợ hàng chục nghìn mạng riêng ảo trên cùng một mạng. Sỡ dĩ nó có khả năng mở rộng tốt như vậy bởi vì nó không yêu cầu lưới mạng đầy đủ và các trạm là ngang hàng với nhau qua mạng. Mạng riêng ảo MPLS được phân loại như mạng riêng ảo dựa trên mạng IP. Khách hàng trao đổi thông tin định tuyến cho mỗi trạm bằng cách kết nối tới bộ định tuyến biên của nhà cung cấp địa phương gần nhất. Nhà cung cấp sau đó sử dụng Multiprotocol Border Gateway Protocol (MP-BGP) quảng bá các tuyến đường và nhãn VPN tới các bộ định tuyến biên PE (Provider Edge) của các nhà cung cấp dịch vụ khác gắn với các site khách hàng khác trong cùng một VPN.
4.5 Kết luận
Sự gia tăng nhanh chóng lưu lượng Internet đã buộc các nhà cung cấp dịch vụ tìm kiếm các cách để tăng cường khả năng của mạng. Những nhà cung cấp dịch vụ kịp thời chuyển dịch mạng trục của họ sang công nghệ mạng trục mới đã thành công trong việc gia tăng thị phần của họ. MPLS là một công nghệ hoạt động trong sự phối hợp định tuyến IP với mục tiêu tăng tốc độ chuyển mạch các gói tin IP trên mạng trục. Ưu điểm đáng kể khác của MPLS là khả năng quản lý và phân loại lưu lượng truy cập để sử dụng tài nguyên tốt hơn, do đó được sử dụng để giải quyết có hiệu quả vấn đề tích hợp và điều khiển lưu lượng trong mạng trục. MPLS VPN cung cấp những lợi ích mà các nhà cung cấp dịch vụ rất cần có trong các mạng của họ, chẳng hạn như khả năng mở rộng, khả năng quản lý và độ tin cậy.
Với tất cả các lợi thế của MPLS như đã đề cập ở trên, hiện trạng mạng VinaREN và các kết quả khả quan khi triển khai thử nghiệm,công nghệ MPLS đã được chọn là công nghệ cho mạng trục của VinaREN.
Tài liệu tham khảo:
[1] Fang L.; Bita N.; Le R.; Miles J., ”Interprovider IP- MPLS services: requirements, implementations, and Challenges”.Communications Magazine, IEEE , vol.43, no.6, pp.119-128,June 2005.
[2] Daugherty B.; Metz C., “Multiprotocol label Switching and IP, Part1: MPLS VPNs over IP Tunnels”. IEEE Internet Computing, pp. 68-72, May-June 2005.
[3] Shah. S. A. A.; Ahmed. L., ”MPLS Feasibility for General &Core IP Networks using Open Source System”. Second International on Electrical Engineering, pp. 1-6, March 2008.
[4] Tài liệu hội nghị VinaREN lần thứ 5
Nguyễn Hồng Vân