Những đóng góp của CDIT cho sự phát triển của VNPT và ngành ICT Việt Nam (P2)

Diễn đàn - Ngày đăng : 20:56, 03/11/2015

CDIT đã tích cực tham gia đóng góp vào hoạt động KHCN của nước nhà bằng việc chủ động trong nghiên cứu công nghệ mới, nắm bắt làm chủ công nghệ mạng lưới, tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ mới thúc đẩy sự phát triển của VNPT cũng như ngành ICT.

MỘT SỐ THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

Từ kết quả của hoạt động khoa học công nghệ, CDIT đã có 7 sản phẩm được giải thưởng VIFOTEC; được Bộ Khoa học và Công nghệ và Liên hiệp các Hội Khoa học tặng cờ Đơn vị áp dụng xuất sắc các công trình đoạt giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ; đã có 8 sản phẩm được hợp chuẩn Quốc gia; 15 sản phẩm được bảo hộ quyền tác giả, 6 nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ, 6 sản phẩm đoạt cúp vàng CNTT... CDIT đã vinh dự 3 lần được nhận huân chương lao động: hạng 3 năm 2004, hạng nhì năm 2009 và hạng nhất năm 2014. Đây là sự ghi nhận cho những nỗ lực đóng góp của CDIT đối với sự nghiệp Khoa học và Công nghệ của Việt Nam.

MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG

Thành công của CDIT đạt được có nguyên nhân lớn nhất từ đội ngũ nghiên cứu viên. Đội ngũ CDIT được xây dựng lên từ những cá nhân có lòng đam mê nghiên cứu, nhiệt huyết mong muốn đóng góp kiến thức và sức trẻ cùng với bộ máy lãnh đạo được tôi luyện qua các khó khăn thử thách. Nhờ tinh thần luôn luôn chủ động, liên tục sáng tạo đã giúp CDIT tìm ra các định hướng đi phù hợp với từng thời kì và trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào.

Các hoạt động nghiên cứu của CDIT có lợi thế từ sự gắn liền với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó khách hàng lớn nhất là Tập đoàn VNPT. Hầu hết các sản phẩm CDIT thực hiện đều xuất phát từ nhu cầu thực tế và được ứng dụng trên mạng lưới. Đây là điều kiện thuận lợi không phải đơn vị nghiên cứu nào cũng có được, cho phép tạo ra các sản phẩm có khả năng ứng dụng thực tế cao và giúp đội ngũ của CDIT được tích lũy công nghệ một cách liên tục.

Các nghiên cứu của CDIT còn có lợi thế từ sự gắn kết với công tác đào tạo. Với kinh nghiệm thực tiễn từ mạng lưới, CDIT đã giúp cho việc nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên của Học viện. Đồng thời, qua công tác đào tạo, CDIT cũng có cơ hội tiếp cận và tuyển dụng được các nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, tại Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông, Viện CDIT cùng với Viện Khoa học kỹ thuật Bưu điện, Viện Kinh tế Bưu điện tạo nên Khối nghiên cứu. Hoạt động của Khối nghiên cứu có sự gắn kết chặt chẽ với Khối đào tạo, tạo nên mô hình trường Đại học nghiên cứu tiên tiến ở Việt nam, có doanh thu từ hoạt động của Khối nghiên cứu chiếm đến 30% doanh thu toàn Học viện.

CÁC THÁCH THỨC VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỜI GIAN TỚI

Ngày nay, hạ tầng ICT đang trở thành hạ tầng của các ngành kinh tế xã hội và giúp các nước hội nhập chung vào kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng đã chủ động xây dựng chiến lược hội nhập này và gần đây đã đưa ra các quyết sách trong phát triển hạ tầng ICT. Một hạ tầng ICT quốc gia hiện đại, an toàn và ổn định sẽ góp phần hỗ trợ thiết thực sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Để xây dựng một hạ tầng ICT an toàn, ổn định là một thách thức lớn đối với ngành ICT của Việt nam nói chung và với các đơn vị nghiên cứu về lĩnh vực này như CDIT nói riêng.

Ngoài các thách thức do sự thay đổi nhanh của kỹ thuật công nghệ, hiện CDIT còn có thách thức lớn về mặt nhân lực. Sự hội nhập tạo ra nhiều cơ hội cho nguồn lực ICT chất lượng cao đã được đào tạo bài bản và kinh nghiệm thực tế của CDIT, nhưng do CDIT hiện vẫn là một đơn vị sự nghiệp, không có hỗ trợ từ ngân sách và không có nguồn đầu tư ổn định nên khó giữ chân các nguồn lực này về lâu dài.

Bên cạnh đó, các sản phẩm của CDIT tuy phong phú và có hàm lượng khoa học cao nhưng còn yếu ở khâu hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Thông thường, chức năng của đơn vị nghiên cứu phát triển là tạo ra các sản phẩm mẫu và cần có lực lượng sản xuất để hoàn thiện đến sản phẩm thương mại nhưng do các hạn chế về nguồn lực kinh tế nên Viện cũng chưa tổ chức được các khâu này một cách chuyên nghiệp.

Để có thể tiếp tục đóng góp sức mình vào sự phát triển của ngành ICT và xã hội, thời gian tới CDIT sẽ tiếp tục nghiên cứu nắm vững các công nghệ ICT mới, chủ động chọn cho mình mô hình phát triển sản phẩm phù hợp để tạo ra các sản phẩm hoàn thiện, mở rộng thị trường mới bên cạnh các thị trường truyền thống.

Trong lĩnh vực công nghệ, CDIT sẽ tập trung vào nghiên cứu về Chất lượng dịch vụ và An toàn thông tin cho hạ tầng ICT băng rộng. Các nghiên cứu của CDIT sẽ được đặt trên góc độ tổng thể quốc gia nhằm tư vấn cho các cơ quan quản lý cũng như các nhà khai thác các giải pháp kỹ thuật và các chính sách phù hợp. Trên góc độ dịch vụ, CDIT sẽ nghiên cứu giải pháp giúp các nhà khai thác dịch vụ hạ tầng ICT phát huy hiệu quả các hạ tầng này theo hướng tạo ra các dịch vụ mới, chất lượng cao và bảo mật thông tin cho khách hàng. Bên cạnh đó, CDIT cũng nghiên cứu các giải pháp đưa ứng dụng ICT/Media vào các ngành kinh tế, xã hội khác nhằm hướng tới một xã hội thông minh và tiện ích hơn.

KẾT LUẬN

Trong suốt thời gian 15 năm ra đời và phát triển của mình, CDIT luôn trung thành với sứ mệnh thúc đẩy sự phát triển của ngành ICT Việt Nam bằng sự tâm huyết và những nỗ lực không mệt mỏi. CDIT đã tích cực tham gia đóng góp vào hoạt động KHCN của nước nhà bằng việc chủ động trong nghiên cứu công nghệ mới, nắm bắt làm chủ công nghệ mạng lưới, tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ mới thúc đẩy sự phát triển của VNPT cũng như ngành ICT. Trong thời gian tới, CDIT sẽ tiếp tục đóng góp mạnh mẽ hơn nữa cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đưa Việt Nam hội nhập thành công với thế giới.

TS. Nguyễn Trung Kiên

(TCTTTT Kỳ 2/5/2014)