70 năm Ngành Bưu điện Việt Nam: Thông tin liên lạc thời kỳ chống Mỹ

Đô thị thông minh - Ngày đăng : 20:23, 03/11/2015

Qua hơn 20 năm chiến đấu vô cùng gay go, gian khổ với đế quốc Mỹ, ngành Bưu điện đã có 4.419 người hy sinh và trên 2.000 người bị thương trong khi làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc.

Kỳ 4:Thời kỳ chống Mỹ

Ông Phạm Ngọc Tuất – Bưu điện Thanh Trì dũng cảm nối dây thông tin
tại khu vực có bom nổ chậm ở Văn Điển – Hà Nội

Ở Miền Bắc (1965 – 1975)

Thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở rộng và kéo dài chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Mục tiêu bắn phá của địch trên cả đường không, đường bộ và đường thủy, nhằm phá hoại giao thông, liên lạc trong đó có mạng lưới bưu chính, viễn thông. Để đảm bảo vừa củng cố vừa phát triển mạng lưới bưu điện phục vụ tốt trong tình hình mới, ngành Bưu điện đã kịp thời chyển dịch, sơ tán, phân tán các cơ sở bưu điện từ trung ương đến các huyện, xã, vừa cải tạo, vừa xây dựng củng cố và phát triển các đường thư, đường điện, tổng đài…

Lịch sử đã ghi những dấu son đỏ chói về những chiến công của anh chị em ngành Bưu điện không ngại hy sinh, không sợ gian khổ bảo đảm vận hành toàn tuyến thông tin Bắc Nam phục vụ chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm”, chống địch đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, một trong những kỳ tích được ghi nhận là: Trong khi Mỹ ra sức bắn phá miền Bắc, mạng lưới vi ba RVG950, BM400, BM405 vẫn được hoàn thiện và bảo vệ đưa vào khai thác các tuyến Hà Nội – Quảng Ninh, Hải Phòng – Hải Dương, Thái Bình – Nam Định và Việt Trì – Tam Đảo…, lấy núi Yên Phụ làm trạm trung gian chuyển tiếp tuyến vi ba 400 kéo vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh, sẵn sàng tiếp nối, hòa mạng với chiến trường B.

Điện thoại viên Lại Thị Thơ, Hoàng Thị Ríu đã dũng cảm nối thông tin giữa trận máy bay Mỹ ném bom xuống khu vực Đông Anh (1966)

Về thông tin bưu chính, những năm 1970 đã có 19 tỉnh nhận được thư báo sau 2 ngày, 4 tỉnh nhận được sau 3 ngày, 2.587 xã nhận được thư báo trong ngày… Giá trị tổng sản lượng sản xuất công nghiệp năm 1975 gấp 2,7 lần năm 1964. Riêng số dây thông tin bọc nhựa tăng từ 3.000 km năm 1971 lên hơn 20.000 km năm 1975. Cột tre, cột gỗ được thay bằng cột bê tông.

Đối với yêu cầu phục vụ cách mạng miền Nam, thông qua Ban Thống nhất, ngành Bưu điện đã nhiều lần chi viện, cán bộ, công nhân nhất là báo vụ, cơ công, vô tuyến, đào tạo được trên 2.000 công nhân các loại cử vào phục vụ miền Nam cùng với thiết bị vật tư theo yêu cầu của chiến trường.

Trải qua 10 năm (1965 – 1975), vừa phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, vừa phải chi viện cho ngành thông tin liên lạc miền Nam, Bưu điện miền Bắc đã cố gắng lớn về nhiều mặt và được nhà nước ghi nhận. Tiêu biểu là hai đơn vị anh hùng: Đội bảo vệ đường dây Bưu điện Quảng Bình và Đội dây máy Bưu điện Vĩnh Linh, và 2 cá nhân anh hùng lao động: Hoàng Trung Vinh, công nhân cơ điện nhà máy thiết bị Bưu điện, và Nguyễn Văn Số, Đội trưởng đội bảo dưỡng đường dây Bưu điện Quảng Bình. Các cá nhân điển hiình như: liệt sĩ Lê Tiến Qua, thợ dây Công ty công trình Bưu điện Trung ương, các chiến sĩ điện thoại, điện báo Vi Thị Mến, Nguyễn Thị Thu Thủy (Bưu điện Quảng Ninh), Lê Hùng, thợ dây (Bưu điện Quảng Ninh), Nguyễn Thị Minh Sính, Nguyễn Thị Thu Lanh.

Thông tin liên lạc cách mạng ở miền Nam (1954 – 1975)

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, từ Trị Thiên tới khu V, khu VI, nơi trước đây thời kháng chiến chống Pháp còn có một vùng tự do rộng lớn, nay phút chốc biến thành tù ngục của thực dân. Chúng tiến hành tố cộng, diệt cộng, lê máy chém đi khắp nơi để giết hại đồng bào ta. Trong tình hình mới, lực lượng thông tin liên lạc kháng chiến tạm thời rút vào hoạt động bí mật. Bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, cơ động cho phù hợp với điều kiện mới.

Giao bưu vận đi công tác trên chiến trường miền Tây Nam Bộ. Ảnh Tư liệu

Từ năm 1960, nhất là sau thắng lợi liên tiếp của phong trào đồng khởi sâu rộng cả miền Nam, sau khi mặt trận dân tộc giải phóng ra đời, tổ chức và đội ngũ thông tin liên lạc cũng từng bước được tăng cường, luôn luôn “gắng lòng, chia lửa” với đồng bào. Những trang sử hào hùng của thông tin giao bưu ở đây được viết bằng máu của các chiến sĩ luồn rừng, vượt núi, nối mạch Trường Sơn để cho “mệnh lệnh” của Trung ương tới Trung, Nam, để cho “cán và quân chi viện” tới được chiến trường, để cho “vũ khí, quân nhu, hậu cần” vào được nơi trận địa xung yếu nhất. Gian khổ “soi đường”, hy sinh “nối mạch” là những “khái niệm lịch sử” ít người biết đến đã xuất hiện ở đây.

Đến năm 1962, theo chủ trương của Trung ương Cục, ngành Giao bưu và ngành Thông tin chính thức được thành lập, với hệ thống dọc từ trung ương cục đến tỉnh, huyện. Đội ngũ cán bộ, công nhân phát triển khá nhanh. Năm 1960, toàn ngành Giao Bưu chỉ có mấy trăm người, năm 1971 đã có gần 10.000 người; ngành Thông tin năm 1960 mới có 49 người, năm 1971 đã lên tới 1.200 người. Ngành Giao bưu đã có nhiều công sức trong việc mở đường giao liên vượt Trường Sơn để đưa đón cán bộ, bội đội, chuyển vận vũ khí, đạn dược, lương thực… từ Bắc vào Nam. Nhiều nữ chiến sĩ giao bưu đã hy sinh cả hạnh phúc gia đình để giữ mạch thông tin giao bưu không đứt như chị Nguyễn Thị Lệ, 7 năm liền trên chiến trường Quảng Trị, mỗi ngày phải vượt dốc đá tai mèo dựng đứng, gùi cõng văn tài liệu trên vai. Máy bay B52, thả bom trúng nhà trạm, đồng đội hy sinh một mình chị lo chôn cất. Bốn ngày liền, thân gái một mình trên một quả đồi trơ trọi, chị vẫn không rời trận địa vì chưa có lệnh được rút đi nơi khác.

Chị Huỳnh Thị Thuận giao bưu Quảng Nam bị địch bắt đưa lên trực thăng để đưa về đồn tra tấn. Chị đã nuốt tài liệu rồi nhảy xuống đất tự tử.

Sau khi Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, ngành Giao bưu đã làm nhiệm vụ mở tuyến đầu cầu giữa 2 miền Nam – Bắc, cùng một số ngành và bộ đội Trường Sơn hoàn thành việc đưa dẫn cán bộ, bộ đội chuyển vận vũ khí, hàng hóa với khối lượng rất lớn từ Bắc vào Nam chuẩn bị cho việc giải phóng miền Nam.

Ngành Thông tin (Vô tuyến điện) tuy hoạt động trong một chiến trường bị chia cắt rất nặng nề, nhưng với ý chí đầy sáng tạo và kiên cường… nhanh chóng, củng cố, ổn định bộ máy tổ chức, phát triển mạng lưới. Năm 1963, toàn miền chỉ có một cụm đài gồm từ 2 – 4 đài, liên lạc với 16 đối tượng, đến năm 1969 đã liên lạc với 42 đối tượng và năm 1974 nâng lên 46 đối tượng. Khối lượng cũng phát triển mạnh. Năm 1968, mỗi tháng toàn miền chỉ lưu thoát khoảng 3.000 đến 4.000 bức điện báo, thì cuối năm 1973, mỗi tháng lưu thoát tời 80.000 bức. Trong điều kiện bị địch phong tỏa, anh chị em đã tự lực, phát huy sáng kiến, tự sửa chữa, lắp ráp thiết bị, phương tiện thông tin. Toàn miền có gần 300 máy thu phát hoạt động và dự phòng thì gần 250 máy là tự lắp ráp.

Từ năm 1966, để hỗ trợ cho thông tin vô tuyến, mạng thông tin hữu tuyến cũng được xây dựng ở vùng căn cứ Trung ương Cục. Đến năm 1972, mạng điện thoại đã có tới 300 km đôi dây, với 3 tổng đài 30 số và hàng trăm máy lẻ phục vụ.

Qua hơn 20 năm chiến đấu vô cùng gay go, gian khổ với đế quốc Mỹ, ngành Bưu điện đã có 4.419 người hy sinh và trên 2.000 người bị thương trong khi làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc. Ngành Giao bưu được tặng thưởng 1.399 Huân chương các loại và ngành Thông tin được thưởng 551 Huân chương. Cả hai ngành được trên 4.000 bằng khen “Dũng sĩ”. Điều đó đã khẳng định những đóng góp quan trọng của Ngành Thông tin liên lạc cách mạng miền Nam trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc.