Cơ hội xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU rất lớn
Truyền thông - Ngày đăng : 09:11, 21/11/2022
Những yêu cầu mới của thị trường châu Âu
Châu Âu là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Cách đây khoảng 10 năm, châu Âu là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Hiện nay, Mỹ và Trung Quốc là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và châu Âu là thị trường lớn thứ ba. Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA), được ký kết vào năm 2019 và chính thức có hiệu lực vào năm 2020, là thỏa thuận thương mại tự do giữa Việt Nam và 27 nước thành viên EU. Kể từ khi Hiệp định EVFTA được thực thi, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước châu Âu đã tăng mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực. Cụ thể, trong 2 năm đầu sau khi thực thi Hiệp định EVFTA, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam một năm đạt trung bình khoảng 41,7 tỷ USD, cao hơn mức trung bình 33,5 tỷ USD/năm, tương đương mức cao hơn 24% của kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2016 - 2019.
EVFTA, cùng với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay. Theo đánh giá của bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại Tọa đàm “Tăng sự hiện diện của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU” diễn ra mới đây, châu Âu là thị trường có tốc độ tăng trưởng tương đối tốt.
Tại Tọa đàm, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên cũng cho biết, châu Âu là thị trường đa dạng với sức mua cao. Theo ông Khanh, đây là thị trường tiềm năng lớn và rất hấp dẫn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Đặc điểm của thị trường châu Âu hiện nay người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến giá thành sản phẩm, chất lượng, mà cách thức làm ra sản phẩm cũng rất được thị trường này chú trọng. Chẳng hạn, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cách thức đối xử với người lao động, với môi trường và xã hội như thế nào. Vì vậy, để chinh phục thị trường châu Âu và đạt mục tiêu tăng trưởng, xuất khẩu bền vững đến thị trường này, doanh nghiệp Việt cần lưu ý các đặc điểm trên, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu và mối quan tâm của thị trường và sẵn sàng với những thay đổi để tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp.
Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (DOVECO), đồng thời là Phó Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhận định tiềm năng nhập khẩu của thị trường châu Âu rất lớn, cụ thể, nhu cầu nhập khẩu rau quả chiếm khoảng 45%. Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao là đơn vị nông sản đầu tiên của Việt Nam đã xuất khẩu 100 tấn chanh leo sang thị trường châu Âu. Ông Khuê chia sẻ không trồng được các loại rau quả nhiệt đới, như dứa, chuối, chanh leo…, vì vậy các nước châu Âu là thị trường lớn để doanh nghiệp Việt Nam hướng tới. Theo ông Khuê, châu Âu cũng thanh toán sòng phẳng nghiêm túc, đây là điều rất thuận lợi cho các doanh nghiệp khi kinh doanh tại thị trường này.
Chưa khai thác hết dư địa xuất khẩu sang thị trường châu Âu
Mặc dù là một thị trường có dư địa xuất khẩu lớn với các doanh nghiệp Việt, song tỷ trọng của thị trường châu Âu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn khá thấp, dù là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của đất nước. Bà Nguyễn Thị Thu Trang cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam đã làm rất tốt với thị trường, song vẫn chưa khai thác hết dư địa của EU.
Thực tế, Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam được ký kết đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Tiếp cận với thị trường có tiêu chuẩn hàng hóa cao, doanh nghiệp Việt Nam vì thế cũng sẽ nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm, quy trình sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường. Vì thế, hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp Việt sẽ có tính cạnh tranh hơn, tạo thói quen sản xuất kinh doanh có trách nhiệm xã hội cho doanh nghiệp Việt.
Ông Ngô Chung Khanh tin rằng đơn hàng và khách hàng từ châu Âu sẽ nhiều hơn. Hiện tại, có thể vì châu Âu cũng như thế giới đang gặp một số khó khăn về kinh tế, địa chính trị, nên sẽ có những lĩnh vực bị ảnh hưởng, đơn hàng bị sụt giảm, song đó là trong ngắn hạn. Thị trường sẽ có nhu cầu đa dạng hơn trong tương lai. Ngoài ra, trong quá trình thực thi, thuế càng ngày càng giảm. Theo lộ trình cắt giảm thuế mà EU đồng ý cho Việt Nam tối đa là 7 năm. Như vậy, hàng Việt Nam đang có nhiều lợi thế cạnh tranh về thuế.
Để hàng hóa Việt Nam xuất hiện nhiều hơn tại thị trường châu Âu, theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, các hoạt động xúc tiến thương mại cần được làm tốt hơn, và triển khai theo cách chuyển từ xúc tiến thương mại cho sản phẩm của doanh nghiệp sang xúc tiến thương mại cho cả một ngành hàng. Ngoài ra, cần tăng cường các chương trình kết nối. Thực tế, hiện nay, công việc kết nối thương mại đang được các cơ quan liên quan của Việt Nam làm rất tốt, mang lại kết quả rất tích cực. Mở rộng những hoạt động này sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt gặp gỡ đối tác, tìm hiểu thị trường và nắm bắt cơ hội.
Ngoài ra, theo ý kiến của ông Đinh Cao Khuê, các cơ quan chức năng có thể hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá sản phẩm. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, có nhiều cách quảng bá, tiếp cận thị trường như thông qua thương mại điện tử, mạng xã hội, tuy nhiên hội chợ vẫn là cách tiếp cận cơ bản nhất và tạo cơ hội gặp gỡ được nhiều đối tác, doanh nghiệp phía bạn.
Nhằm chinh phục thị trường châu Âu trong bối cảnh mới với những yêu cầu khắt khe hơn về quy trình sản xuất xanh, chất lượng của sản phẩm, các cơ quan nhà nước cũng có thể hỗ trợ doanh nghiệp ở các khâu kiểm tra sản phẩm, vượt qua những rào cản về mặt kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể đảm bảo hàng hóa an toàn, đạt chuẩn và xuất khẩu sang thị trường mà không bị trả lại. Doanh nghiệp cũng có thể tham gia các khóa đào tạo của cơ quan chức năng, để biết quy trình xuất khẩu hàng hóa sang châu Âu và phải đáp ứng những yêu cầu gì. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có thể chủ động đầu tư, thay đổi quy trình, sản phẩm để đáp ứng, tuân thủ quy định của thị trường châu Âu.
Ông Đinh Cao Khuê cho rằng để các doanh nghiệp cạnh tranh được, không những ở thị trường châu Âu mà ở các thị trường khác như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Mỹ, bản chất doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh. Theo đó, doanh nghiệp phải làm tốt hai vấn đề, thứ nhất là chất lượng hàng hóa phải tốt. Thứ hai là giá thành hợp lý.
Để được như vậy, doanh nghiệp cần tính toán bài toán đầu tư, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, từ phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc và đặc biệt là tăng năng suất lao động, giảm giá thành để tăng cạnh tranh. Đặc biệt, cần hình thành chuỗi liên kết từ các hộ nông dân, các hợp tác xã đến các thương lái để đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn sản phẩm./.