Nâng tầm hệ thống cảng biển Việt Nam đáp ứng xu thế hội nhập
Truyền thông - Ngày đăng : 17:04, 24/11/2022
Cảng biển Việt Nam từng bước hiện đại
Trong những năm qua, hạ tầng ngành hàng hải, đặc biệt là hạ tầng cảng biển có một vai trò rất quan trọng vừa mang tính chất phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế đất nước vừa tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Gắn liền với các trung tâm, các vùng kinh tế lớn của cả nước đã hình thành các cảng biển lớn với vai trò là đầu mối phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa và tạo động lực phát triển toàn vùng như Cảng biển Quảng Ninh, Hải Phòng gắn với vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; Cảng biển Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Dung Quất, Quy Nhơn gắn với vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung; Cảng biển TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai gắn với vùng kinh tế động lực Đông Nam Bộ; Cảng biển Cần Thơ, An Giang gắn với vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long…
Các cảng này đã và đang thực hiện vai trò cảng cửa ngõ quốc tế và đảm nhận chức năng trung chuyển. Năm 2020, hệ thống cảng biển Việt Nam đã thông qua 692,2 triệu tấn (gấp khoảng 8,4 lần so với sản lượng thông qua năm 2000) và vượt 1,7% so với dự báo nhu cầu cho năm 2020 (640-680 triệu tấn theo Quyết định số 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ). Hàng năm, cảng biển Việt Nam góp phần thông qua toàn bộ lượng hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển, chiếm đến trên 90% tổng nhu cầu xuất nhập khẩu của cả nước, cảng có vai trò quan trọng trong việc lưu thông, trao đổi hàng hóa, tạo động lực thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế.
Việt Nam cũng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư là các nhà khai thác cảng chuyên nghiệp, các hãng tàu lớn của thế giới tham gia đầu tư xây dựng và khai thác cảng biển cảng biển tại Việt Nam như Tập đoàn DP World, UAE, Tập đoàn SSA Marine, Mỹ, Tập đoàn PSA, Singapore, Tập đoàn APMT, Đan Mạch, Tập đoàn Hutchison Port Holding, Hong Kong (Trung Quốc)…
Với việc cải thiện chất lượng dịch vụ cảng biển kèm theo nhu cầu vận tải biển của Việt Nam ngày cảng lớn đã thu hút các hãng tàu mở tuyến từ Việt Nam kết nối với các quốc gia khác trên thế giới. Khu bến lạch Huyện của Việt Nam đã tiếp nhận tàu trọng tải đến 132.000DWT, khu bến Cái Mép Thị Vải đã tiếp nhận tàu trọng tải đến 214.000 DWT tương đương sức chở trên 18.000 TEU. Từ khu bến cảng Cái Mép - Thị Vải hàng tuần với tổng cộng gần 40 tuyến tàu, trong đó 18 tuyến vận tải đi châu Âu, châu Mỹ, 10 tuyến nội Á, đưa Việt Nam dần trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi hải trình toàn cầu.
Năng lực hạ tầng cảng biển được đầu tư thời gian qua với phương châm đi trước một bước, cũng góp phần tạo thế chủ động cho Việt Nam ứng phó với các vấn đề kinh tế toàn cầu như dịch bệnh COVID-19, dịch chuyển làn sóng đầu tư thu hút mạnh mẽ dòng đầu tư nước ngoài và góp phần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Từng bước cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam
Mặc dù sau 2 thập kỷ quy hoạch, hệ thống cảng biển Việt Nam đã có sự thay đổi mạnh cả về chất và lượng nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập cần sớm khắc phục như: sự thiếu đồng bộ giữa quy hoạch cảng biển với quy hoạch xây dựng của địa phương và các ngành khác; hạ tầng chưa đáp ứng kịp nhu cầu ngày càng cao của thị trường hàng hải khu vực và thế giới; thiếu các cảng biển hiện đại có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn; trang thiết bị bốc xếp lạc hậu, năng suất thấp… Trước thực trạng đó, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Bộ Giao thông Vận tải tổ chức lập, trình đầu tiên và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021.
Theo quy hoạch này, dự kiến trong giai đoạn tới, tổng nhu cầu đầu tư hệ thống cảng biển là 398.706 tỷ đồng, được huy động chủ yếu từ nguồn ngoài ngân sách, vốn doanh nghiệp. Trong đó, đến năm 2025 là 147.164 tỷ đồng gồm nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hàng hải công cộng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng; đến năm 2030 bổ sung thêm 251.542 tỷ đồng. Nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung cho hạ tầng hàng hải công cộng; khu vực trọng điểm, tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư.
Hiện nay, Bộ Giao thông Vận tải đang tiếp tục tổ chức lập các quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành, trong đó, có Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, để triển khai cụ thể hóa quy hoạch tổng thể cảng biển, làm cơ sở cho việc thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng cảng biển, cảng cạn đáp ứng nhu cầu lưu chuyển hàng hóa thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải đã giao Cục hàng hải Việt Nam nghiên cứu, làm rõ các ý kiến chuyên ngành, chắt lọc để đưa vào dự thảo, để có quy hoạch chất lượng, khả thi, mang tính đột phá để phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế xã hội và là cánh tay đắc lực cho sự phát triển của đất nước, địa phương trong thời gian tới.
Riêng đối với chiến lược phát triển hệ thống cảng cạn, Cục Hàng hải cho biết sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng cạn trên các hành lang vận tải kết nối với các cửa khẩu cảng biển lớn ở khu vực phía Bắc (cảng Hải Phòng) và khu vực phía Nam (cảng TP. Hồ Chí Minh, Cái Mép - Thị Vải), các cảng cạn gắn với các hành lang vận tải qua biên giới; ưu tiên đầu tư cảng cạn có vị trí kết nối được với hai phương thức vận tải, các vị trí gắn liền hoặ nằm gần các cụm khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung.
Cục Hàng hải Việt Nam cũng vừa trình Bộ Giao thông Vận tải thẩm định "Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050". Cụ thể, trong việc đầu tư các bến cảng biển, đến năm 2025, tập trung đầu tư các bến 3, 4, 5, 6 tại khu bến Lạch Huyện; bến khởi động tại khu bến Liên Chiểu và các bến cảng chính thuộc cảng biển loại l. Ngoài ra, tập trung đầu tư các bến khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch và các bến cảng quy mô lớn gần trung tâm điện lực than, khí, xăng dầu, luyện kim../.