Giải pháp để làm chủ ngành công nghiệp “Make in Viet Nam”
Make in Viet Nam - Ngày đăng : 15:54, 14/06/2023
Giải pháp để làm chủ ngành công nghiệp “Make in Viet Nam”
Việt Nam đang ở giai đoạn bắt đầu làm sản phẩm tích hợp nên cần đưa ra những chính sách phù hợp để làm chủ ngành công nghiệp “Make in Viet Nam".
Sản xuất thông minh ở Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức đan xen
Phát biểu khai mạc Hội thảo chuyên đề 1 với chủ đề: “Nâng cao năng lực sản xuất thông minh và phát triển ngành công nghiệp công nghệ số theo định hướng Make in Viet Nam” ngày 14/6 trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao về công nghiệp 4.0 năm 2023, ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, theo dự báo của Ericsson, vào năm 2025 khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ thu hút 2/3 nhà sản xuất toàn cầu, trong đó dẫn đầu thuộc về các ngành sản xuất thông minh. Trong đó, Việt Nam cũng được Ericsson đánh giá là một điểm đến hấp dẫn với doanh thu từ công nghiệp 5G ước đạt 1,54 tỷ USD vào năm 2030.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, công bố tháng 11/2021, trong công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam, 70% sản phẩm được tạo ra sử dụng máy móc do con người điều khiển, 20% được làm thủ công, chỉ 9% sử dụng máy móc được điều khiển bằng máy vi tính và dưới 1% sử dụng công nghệ tiên tiến hơn như robot, sản xuất đắp lớp 3D.
Báo cáo của CSIRO và Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), công bố tháng 3/2021 cho thấy chỉ một phần nhỏ các doanh nghiệp (DN) Việt Nam tham gia vào các hoạt động đổi mới sáng tạo; tỷ lệ DN có R&D trong các ngành sản xuất còn rất thấp như: Ngành sản xuất thiết bị điện 17%, ngành sản xuất hóa chất 15%, ngành sản xuất chế biến thực phẩm 9%, ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và nhựa 7%, ngành sản xuất da và sản phẩm có liên quan 6%, ngành dệt may 5%.
“Như vậy, có thể thấy phát triển sản xuất thông minh ở Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội, khó khăn và thách thức đan xen”, ông Sơn bày tỏ.
Vì vậy, hội thảo này là cơ hội để các chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế, các nhà quản lý cùng trao đổi, thảo luận về một số vấn đề như thúc đẩy chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang sản xuất sản phẩm theo hướng “Make in Viet Nam ”. Qua đó, phát triển, làm chủ công nghệ sản xuất, đẩy mạnh R&D cũng như thúc đẩy công nghiệp sáng tạo, hệ sinh thái nội dung số tại Việt Nam hay các chính sách nhằm hỗ trợ các DN, nhất là DN truyền thống, DN sản xuất chuyển đổi sang sản xuất thông minh, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng số.
Thay mặt cho Bộ TT&TT chia sẻ tại sự kiện, ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Công nghiệp CNTT và Truyền thông (ICT), (Bộ TT&TT) cho biết, từ kinh nghiệm từ một số nước, vùng lãnh thổ châu Á đã thành công trong phát triển công nghiệp như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc,… Giai đoạn 1 là gia công lắp ráp để tận dụng ưu thế nguồn nhân lực, chi phí cạnh tranh. Giai đoạn 2 là làm sản phẩm tích hợp, từng bước tham gia chuỗi cung ứng, từng bước quản lý sản xuất, tối ưu hóa quy trình. Giai đoạn 3 là làm sản phẩm, tự chủ một số công nghệ lõi.
Trong đó, theo ông Nghĩa, Việt Nam đang ở gia công lắp ráp và bắt đầu làm sản phẩm tích hợp. Do vậy, sản xuất thông minh sẽ đóng vai trò quan trọng trong tự động hóa các quy trình, giúp tối ưu hóa chi phí sản xuất và nhanh chóng có sản phẩm đến người dùng.
Trong 3 năm qua, lĩnh vực Công nghiệp ICT đang chứng kiến một sự khởi sắc của các DN trong nước. Các đơn vị tiêu biểu như Viettel, VNPT, Trung Nam EMS… đã từng bước làm các sản phẩm sản xuất thông minh, sản phẩm tích hợp. “Tôi đánh giá rất cao các DN Việt Nam đã chủ động xác định thị trường, phân khúc phù hợp và có bước đầu tư công nghệ bài bản lâu dài”, ông Nghĩa nhận định.
Ông Nghĩa đã đưa ra một số ví dụ như Toyota đã mất 34 năm hay Hyundai phải mất 28 năm để tự sản xuất, làm chủ động cơ của mình. Thậm chí, trong khoảng 10 năm đầu tiên, Hyundai gần như kinh doanh không có lãi hoặc được bù đắp từ hoạt động khác cho việc sản xuất ô tô. Nếu như nhìn từ góc độ DN IPO, hay DN lên sàn (chứng khoán) thì chắc chắn định hướng Hyundai sẽ không được cổ đông ủng hộ.
Do đó, theo ông Nghĩa, nếu các DN Việt Nam mong muốn đầu tư cho việc làm chủ sản xuất, làm chủ công nghệ thì sẽ rất cần những chính sách phù hợp cũng như được Chính phủ, Bộ, ngành ủng hộ, thúc đẩy trong thời gian tới.
Ông Nghĩa cũng nhấn mạnh nếu không có các chính sách thúc đẩy công nghiệp “Make in Viet Nam” thì trong lĩnh vực sản xuất thông minh, nhờ sự năng động của mình, các đơn vị trong nước cũng sẽ chiếm khoảng 30% thị phần. Do đó, rất cần đến sự ủng hộ và hỗ trợ từ ngân sách để giúp cho khả năng tự chủ của DN Việt được tốt hơn.
Thúc đẩy sản phẩm “Make in Viet Nam” giải những bài toán đặc thù ở Việt Nam
Chia sẻ quan điểm của VNPT, bà Phan Thị Thanh Ngọc, chuyên gia tư vấn chuyển đổi số (CĐS) của VNPT-IT khẳng định, để phát triển công nghiệp công nghệ số Việt Nam nhanh và bền vững, cần có sự kết hợp giữa sức mạnh tự cường và khả năng hợp tác quốc tế, giữa nhà nước mạnh và thị trường mạnh.
Trong chia sẻ của mình, bà Ngọc đã đưa ra 5 đề xuất về chính sách phát triển ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam bao gồm: Chính sách ưu đãi cho DN; Chính sách kiểm soát chất lượng sản phẩm dịch vụ công nghệ số Make in Viet Nam; xúc tiến, thúc đẩy nhu cầu; thu hút vốn đầu tư FDI; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ số.
Trao đổi về chủ đề thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ số với giải pháp Make in Viet Nam ”, bà Đinh Thị Thuý, Tổng Giám đốc Công ty CP MISA đã đặt ra câu hỏi “Việt Nam có lợi thế gì trong công nghiệp, công nghệ số?” vì khi đó mới tìm được giải pháp để phát triển.
Theo bà Thuý, trong CMCN 4.0, Việt Nam phải làm chủ được những công nghệ mới như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu, chuỗi khối (blockchain)… Với lợi thế chịu khó và ham học hỏi, người Việt hoàn toàn có thể nắm bắt được những công nghệ này, nhất là khi không cần đầu tư lớn về tiền bạc. Từ đó, sản xuất ra những sản phẩm, giải pháp thông minh giải quyết bài toán mà khách hàng gặp phải.
Với vai trò một đơn vị phần mềm, bà Thuý khẳng định, người Việt phải làm chủ trong lĩnh vực này, để giải quyết được nhu cầu, thói quen, văn hoá của Việt Nam. Khi làm ra các sản phẩm Make in Viet Nam thì chi phí sẽ tối ưu hơn so với phần mềm của nước ngoài.
Để chính phủ có thể hỗ trợ các DN công nghệ số Make in Viet Nam, theo bà Thuý, đầu tiên phải coi việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia là trách nhiệm chung của các đơn vị liên quan và cho phép DN kết nối, liên thông miễn là đạt những tiêu chuẩn nhất định được chính phủ quy định, không độc quyền kết nối để đa dạng dữ liệu vì dữ liệu chỉ có giá trị khi được khai thác.
Tiếp theo, chính phủ nên định hướng DN nhà nước tập trung làm những nền tảng, hạ tầng mà tư nhân không làm được, tạo bệ phóng cho người dân và DN tư nhân phát triển. Ví dụ như hạ tầng Internet ổn định là điều kiện để DN Việt cung ứng dịch vụ tốt cho khách hàng trong nước và quốc tế.
Cuối cùng, theo bà Thuý, cơ quan quản lý nhà nước, bộ ngành nên tập trung xây dựng thể chế chính sách, tiêu chí, tiêu chuẩn yêu cầu phần mềm do tư nhân phát triển phải đáp ứng thay vì tự phát triển phần mềm.
Diễn đàn cấp cao thường niên về Công nghiệp 4.0 năm 2023 gắn với triển khai thực hiện Nghị quyết 29 về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự kiện bao gồm 1 Phiên Diễn đàn cấp cao, 4 hội thảo chuyên đề; 1 triển lãm công nghệ 4.0 và 1 phiên Tọa đàm và khảo sát thực tế tại địa phương.
Hội thảo chuyên đề 1 có 6 báo cáo chính với nội dung tập trung vào: Phát triển ngành công nghiệp công nghệ số; CĐS trong sản xuất: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam; Ứng dụng IoT trong tối ưu sản xuất; Công nghệ 4.0 trong sản xuất: thúc đẩy nâng cao giá trị DN và năng lực cạnh tranh; Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ số với giải pháp Make in Viet Nam; Giải pháp quản lý và điều hành sản xuất thông minh (MoM) thế hệ mới; Nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh./.