Tạo đà bứt phá thu hút đầu tư bằng cách xây dựng Luật Khu Công nghiệp, Khu Kinh tế
Truyền thông - Ngày đăng : 18:24, 01/11/2023
Tạo đà bứt phá thu hút đầu tư bằng cách xây dựng Luật Khu Công nghiệp, Khu Kinh tế
Việc xây dựng Luật Khu Công nghiệp, Khu Kinh tế được xem là giải pháp nhằm tạo dựng khung pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất về Khu Công nghiệp, Khu Kinh tế, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển các ngành công nghiệp mới tại Việt Nam.
Thiếu khung pháp lý rõ ràng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tính đến tháng 12/2022, trên địa bàn cả nước đã hình thành hệ thống các Khu Công nghiệp (KCN), Khu Kinh tế (KKT) gồm: 407 KCN, trong đó có 04 khu chế xuất được thành lập, với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 128.684 ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 86.208 ha, chiếm khoảng 67% diện tích đất thành lập. 26 KKT cửa khẩu được thành lập tại 21 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biên giới đất liền, với tổng diện tích 766.000 ha.
18 KKT ven biển được thành lập tại 17 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khu vực ven biển, với tổng diện tích mặt đất và mặt nước gần 871.523 ha, trong đó khoảng 100.000 ha được quy hoạch để phát triển các khu chức năng.
Hiện nay, KCN, KKT đã đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, thể hiện trên các mặt: Thu hút được lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi không gian phát triển, thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng trong dài hạn... Đặc biệt, các KCN, KKT đang giải quyết việc làm cho hơn 3,9 triệu lao động trực tiếp, chiếm 8,3% lực lượng lao động cả nước.
Tuy nhiên, theo đánh giá, việc phát triển KCN, KKT thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế. Tỷ lệ lấp đầy của các KCN, KKT hiện mới chỉ đạt hơn 57%
Chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; liên kết, hợp tác trong KCN, KKT, giữa các khu với nhau và giữa KCN, KKT với khu vực bên ngoài còn hạn chế. Phát triển chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, môi trường và xã hội. Hiệu quả sử dụng đất chưa cao.
Nguyên nhân chính là thể chế và pháp luật có liên quan đến KCN, KKT chưa được hoàn thiện, chưa có sự sáng tạo, đột phá để thích ứng với yêu cầu phát triển, tạo hướng đi mới cho phát triển KCN, KKT. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động KCN, KKT chưa có sự thay đổi căn bản, mới dừng lại ở cấp Nghị định. Trong khi đó, hoạt động của KCN, KKT liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: quy hoạch, đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây dựng, môi trường, nhà ở, lao động...
Chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN, KKT chưa đồng bộ, phức tạp, chồng chéo, thiếu tính ổn định và khó dự đoán. Thực tiễn này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của nhà đầu tư về sự ổn định của môi trường đầu tư và tính minh bạch, công bằng của chính sách và làm gia tăng vướng mắc, khiếu nại, tranh chấp trong hoạt động đầu tư.
Xây dựng khung pháp lý từ yêu cầu của thực tiễn
Theo các chuyên gia kinh tế, đã đến lúc cần xây dựng luật riêng cho phát triển KCN, KKT nhằm hoàn thiện thể chế và pháp luật liên quan, tạo khung pháp lý thống nhất cho môi trường đầu tư kinh doanh thêm thuận lợi, đẩy mạnh thu hút đầu tư, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh.
Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, Bộ đã đánh giá, tổng kết quá trình phát triển KCN, KKT từ năm 1991 đến nay và chia thành 4 giai đoạn theo các thời kỳ, làm căn cứ hướng đến xây dựng, hoàn chỉnh khung pháp lý.
Việc xây dựng luật riêng là yêu cầu cấp thiết đang đặt ra, không chỉ với đối tượng điều chỉnh là KCN, KKT mà còn bao gồm cả các khu công nghệ cao để điều chỉnh và áp dụng thống nhất trong cả nước về cách tiếp cận, trình tự thủ tục, ưu đãi, đặc biệt là mô hình quản lý KCN, KKT ở địa phương.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã vừa công bố Đề nghị xây dựng Luật KCN, KKT với 6 nhóm chính sách… Quan điểm xây dựng Luật là bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất; đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và đổi mới cơ chế quản lý, mô hình phát triển của các KCN, KKT.
Theo đó, 6 nhóm chính sách đề xuất gồm: chính sách về việc lập phương hướng xây dựng KCN, KKT trong quy hoạch vùng, và phương án phát triển hệ thống KCN, KKT trong quy hoạch tỉnh; quy định điều kiện đầu tư hạ tầng Khu Công nghiệp, thành lập Khu Kinh tế; ưu đãi đối với KCN, KKT tại địa bàn điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, các dự án đầu tư thực hiện liên kết ngành, cụm liên kết ngành tại KCN, KKT; chính sách thúc đẩy sự phát triển của loại hình Khu Công nghiệp mới, Khu Kinh tế mới, khu chức năng mới trong Khu Kinh tế; ưu đãi đối với doanh nghiệp thuộc diện ưu tiên, hỗ trợ; quản lý nhà nước về KCN, KKT...