Mở rộng vùng biển xanh
Truyền thông - Ngày đăng : 09:43, 03/11/2023
Mở rộng vùng biển xanh
GS.TS. Nguyễn Hồng Thao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Malaysia và Kuwait, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, nguyên Trưởng đoàn đàm phán các hiệp định biên giới với các nước láng giềng của Việt Nam, Trọng tài viên Công ước của LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS), thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế của LHQ đề xuất chiến lược ứng phó với các vấn đề trên biển Đông.
“Thu hẹp vùng biển xám” hướng tới mục tiêu khiến không gian biển trở nên minh bạch và hoà bình hơn, còn “Mở rộng vùng biển xanh” nhằm xác định những tiềm năng của biển và tương lai, thông qua việc thúc đẩy những thực tiễn tốt trong những lĩnh vực quan trọng như chuyển đổi xanh, các công nghệ, nghiên cứu và đầu tư liên quan đến năng lượng điện gió, chuyển đổi năng lượng biển…
“Vùng xám” là khái niệm mang tính biểu tượng, không có định nghĩa rõ ràng. Các học giả phương Tây sử dụng thuật ngữ “chiến thuật (hoặc chiến lược) vùng xám”.
Các hoạt động vùng xám mang tính chiến thuật, được các quốc gia và các thực thể không Nhà nước khai thác và tạo ra sự không rõ ràng của luật pháp để củng cố lập trường của mình, hạ thấp lập trường của đối thủ trong tranh chấp nhằm đạt được mục đích chính trị, quân sự, kinh tế của mình, nhưng không vượt quá ngưỡng chiến tranh hoặc xung đột vũ trang.
Trong thực tiễn, các hoạt động vùng xám chồng lấn với cái gọi là chiến tranh pháp lý là “sử dụng và sử dụng sai luật pháp như một công cụ bổ trợ cho các công cụ quân sự truyền thống nhằm đạt được các mục tiêu chiến thuật” hay sử dụng “tiêu chuẩn kép”. Chúng thách thức luật quốc tế, đặc biệt là Luật xung đột vũ trang.
Để đối phó với chiến thuật vùng xám, các nước cần quản lý và dỡ bỏ tính chưa rõ ràng trong các quy định khi đàm phán, áp dụng và thậm chí có thể sử dụng các cơ quan tài phán để có cách giải thích đúng. Các nước cần hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, vạch trần các hành vi vùng xám vi phạm luật quốc tế, cùng lên án tạo sức mạnh công luận ngăn chặn.
Để có môi trường biển xanh bền vững cần có chính sách khai thác, sử dụng, quản lý bền vững tài nguyên biển và phát triển một nền kinh tế biển xanh dựa trên phát triển năng lượng xanh và năng lượng tái tạo góp phần giảm thiểu khí tải nhà kính.
Tại Hội nghị Đại dương thế giới năm 2015 đã đưa ra khái niệm: “Kinh tế biển xanh là một nền kinh tế biển phát triển bền vững, ở đó hoạt động kinh tế biển cân bằng với khả năng đáp ứng của các hệ sinh thái biển một cách liên tục”. Kinh tế biển xanh vừa đảm bảo cho kinh tế phát triển mà vẫn đảm bảo được sự phát triển của hệ sinh thái biển thông qua các phương thức như giảm phát thải carbon, tăng trưởng theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, thân thiện với môi trường.
Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhấn mạnh mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển. Báo cáo “Kinh tế biển xanh - Hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” do Cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tháng 5/2022 đề xuất một kịch bản phát triển kinh tế biển xanh cho Việt Nam tới 2030 với các khuyến nghị:
Thứ nhất, giảm sản lượng đánh bắt thủy sản xuống mức sản lượng bền vững tối đa (~ 2,7 triệu tấn mỗi năm) thông qua việc giảm sản lượng đánh bắt 2% mỗi năm, bao gồm giảm 5% mã lực tàu ven bờ mỗi năm; duy trì diện tích nuôi trồng thủy sản; và cải tiến quản lý để dẫn đến năng suất an toàn tăng 3,5% mỗi năm.
Thứ hai, thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động sản xuất dầu khí; tăng cường bảo vệ môi trường; và tăng cường tham gia vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo trên biển mới nổi.
Thứ ba, mở rộng nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo biển đạt 10.000 MW lắp đặt vào năm 2030, bao gồm ~4.500 MW gió gần bờ (chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long) và 5.500 MW gió ngoài khơi (chủ yếu là khu vực Nam Trung Bộ).
Thứ tư, thúc đẩy tăng trưởng du lịch: Khách quốc tế 8 - 10%/năm và khách nội địa 5 - 6%/năm đến năm 2030, đưa các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm cả nước biển dâng, vào quy hoạch du lịch.
Thứ năm, tăng vận tải biển lên 20,6% hoặc thị phần vào năm 2030; nâng khối lượng hàng hóa vận chuyển lên 787 triệu tấn; và mở rộng vận tải nội địa lên 289 triệu tấn. Phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng xanh từ biển là một trong những biện pháp chủ chốt.
Việt Nam đã cam kết với quốc tế giảm phát thải khí carbon về không (Net-Zero) vào năm 2050. Quy hoạch điện VIII (2022) dự tính các nguồn điện gió trên bờ, gần bờ và ngoài khơi sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn phát điện vào năm 2045, trong đó điện gió ngoài khơi đạt 7 GW vào năm 2030 và 87 GW vào năm 2050. Mục tiêu này phù hợp với Báo cáo Lộ trình điện gió ngoài khơi cho Việt Nam do Ngân hàng thế giới công bố năm 2021 đưa ra một kịch bản cao 70 GW vào năm 2050, với tầm nhìn một quốc gia thành công trong ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi và cho rằng: Việt Nam có thể đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc, Nhật Bản).
Để làm dược điều này, Việt Nam cần nỗ lực thực hiện các giải pháp đồng bộ sau:
1) Sớm nghiên cứu xây dựng hệ thống văn bản pháp lý cho phát triển điện gió (luật, cùng các văn bản, nghị định, thông tư, quy định kỹ thuật, quy chuẩn quốc gia về điện gió ngoài khơi).
2) Chỉ định 1 cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện quy hoạch tổng thể cấp quốc gia về phát triển điện gió ngoài khơi và cấp phép 1 cửa cho các dự án điện gió ngoài khơi.
3) Thúc đẩy việc sản xuất, nội địa hóa thiết bị cho việc phát triển và sử dụng các nguồn điện gió ngoài khơi.
4) Xây dựng kế hoạch hợp tác ngắn và dài hạn với các tổ chức quốc tế trong việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và tập huấn về nguồn điện gió ngoài khơi.
5) Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, cộng đồng về phát triển và sử dụng năng lượng gió ngoài khơi.
6) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng gió ngoài khơi.
Đại sứ Nguyễn Hồng Thao sinh năm 1957, từng tham gia quân ngũ trong chiến tranh chống Mỹ.
Từ năm 1975, ông học tại Học viện Kỹ thuật quân sự, sau đó tốt nghiệp Đại học Hàng Hải quân sự Bacu (Liên Xô cũ) năm 1982. Ông học thạc sỹ tại Đại học Paris I, Đại học Sorbone (Pháp) và sau đó tốt nghiệp Tiến sĩ tại đây năm 1996.
Đại sứ Nguyễn Hồng Thao thông thạo tiếng Anh, Pháp, Nga. Ông được phong hàm Phó Giáo sư năm 2009 và được phong hàm Giáo sư năm 2022. Ông từng là Đại sứ Việt Nam tại Malaysia và Kuwait, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Biên giới quốc gia, Trưởng đoàn đàm phán các hiệp định biên giới với các nước láng giềng của Việt Nam. Ông từng là cố vấn pháp lý cho các dự án luật quan trọng như Luật Biển, Luật Môi trường. Là thành viên sáng lập Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL), Hội Luật quốc tế châu Á (AsianSIL).
Ngày 3/11/2016, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên trúng cử thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp Quốc nhiệm kỳ 2017-2021. Năm 2018, ông được bầu là Phó chủ tịch thứ 2 của Uỷ ban.
Ngày 12/11/2021, ông tái đắc cử thành viên Uỷ ban Luật quốc tế của LHQ nhiệm kỳ 2023-2027. Đại sứ từng tham gia các hội nghị Quốc tế về Công ước LHQ về Luật biển 1982; Trưởng đoàn đàm phán Tổ chuyên gia pháp lý - kỹ thuật Vịnh Bắc Bộ; Tổng biên tập Niên giám Luật quốc tế Việt Nam của Hội Luật gia quốc tế Việt Nam; tham gia Ban biên tập các tạp chí Luật Quốc tế, Luật Quốc tế Đông Á.
Từ năm 2020, ông cũng là Trọng tài viên Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về Luật biển 1982 (UNCLOS). Hiện ông nghiên cứu và giảng dạy Luật quốc tế tại Học viện Ngoại giao./.