Thuê bao di động chuyển mạng giữ nguyên số có quyền yêu cầu nhà mạng cung cấp bằng chứng từ chối chuyển mạng

Chuyển động ICT - Ngày đăng : 07:45, 08/11/2024

Một trong những điểm mới của dự thảo Thông tư mới của Bộ TT&TT là bổ sung quy định cụ thể về điều kiện chuyển mạng.
Chuyển động ICT

Thuê bao di động chuyển mạng giữ nguyên số có quyền yêu cầu nhà mạng cung cấp bằng chứng từ chối chuyển mạng

NM 08/11/2024 07:45

Một trong những điểm mới của dự thảo Thông tư mới của Bộ TT&TT là bổ sung quy định cụ thể về điều kiện chuyển mạng.

Thuê bao đăng ký chuyển mạng có thể là thuê bao hòa mạng mới

Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý cũng như đảm bảo hoạt động kinh doanh, phát triển bền vững cho các doanh nghiệp (DN) viễn thông, di động và gia tăng quyền, lợi ích cho khách hàng, Bộ TT&TT đang lấy ý kiến nhân dân về nội dung dự thảo Thông tư quy định về việc chuyển mạng viễn thông di động mặt đất giữ nguyên số, thay thế Thông tư số 35/2017/TT-BTTTT ngày 23/11/2017.

Theo đó, Dự thảo gồm IV Chương, 15 Điều chương và kèm theo Phụ lục lưu đồ, hướng dẫn các bước. Và việc lấy ý kiến được đề cập ở các nội dung như: Điều kiện chuyển mạng; đăng ký chuyển mạng; hủy chuyển mạng; thực hiện chuyển mạng; quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan...

Theo đó về điều kiện chuyển mạng bao gồm: Các thuê bao đang hoạt động cả hai chiều trên mạng của DN chuyển đi; thông tin của thuê bao là cá nhân; thông tin của thuê bao là tổ chức.

Và điều kiện về thời gian sử dụng dịch vụ đối với thuê bao đăng ký chuyển mạng được kích hoạt dịch vụ thông tin di động mặt đất tại DN chuyển đi ít nhất 90 ngày trước thời điểm đăng ký sử dụng dịch vụ chuyển mạng, hoặc; thuê bao đăng ký chuyển mạng là thuê bao hòa mạng mới hoặc là thuê bao trúng đấu giá và được kích hoạt dịch vụ thông tin di động mặt đất tại DN gốc ít nhất 6 tháng trước thời điểm đăng ký sử dụng dịch vụ chuyển mạng...

“Các thuê bao đăng ký chuyển mạng cần đảm bảo không vi phạm các hành vi quy định tại Điều 9 Luật Viễn thông hoặc theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không có khiếu nại, tranh chấp về quyền sử dụng số thuê bao tại DN chuyển đi; không đang đăng ký 1 giao dịch chuyển mạng khác”, dự thảo đề cập.

Đối với việc đăng ký chuyển mạng có thể thực hiện trực tiếp tại điểm do chính DN chuyển đến trực tiếp sở hữu, thiết lập (có địa chỉ xác định hoặc lưu động); trực tuyến thông qua sử dụng phần mềm, ứng dụng do DN chuyển đến cung cấp. Trường hợp phần mềm, ứng dụng dùng để đăng ký trực tuyến không xác thực được thông tin của thuê bao theo quy định tại khoản 6 Điều 12 Thông tư này thì phải đăng ký trực tiếp tại các điểm...

Cùng với đó, việc đăng ký chuyển mạng cần thông qua việc điền phiếu đăng ký dịch vụ chuyển mạng các thông tin của thuê bao (họ và tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, số điện thoại liên hệ, địa chỉ, số giấy tờ và loại giấy tờ tương ứng tại khoản 2 Điều này); số thuê bao đăng ký chuyển mạng; tên DN chuyển đi; thông tin trên giấy tờ tùy thân của người được ủy quyền....

Ở nội dung huỷ chuyển mạng được thực hiện kể từ thời điểm đăng ký dịch vụ chuyển mạng đến trước thời điểm nhận được thông báo lịch chuyển mạng từ Trung tâm chuyển mạng, thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng có thể huỷ chuyển mạng bằng hình thức nhắn tin theo cú pháp HUYCM và gửi đến số 1441.

Đảm bảo bí mật thông tin của thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng

Ở nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan quy định chặt chẽ quyền, nghĩa vụ của DN, cá nhân. Theo đó, các DN cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất có một số quyền và nghĩa vụ: Phối hợp với Đơn vị quản lý, vận hành, khai thác Trung tâm chuyển mạng và các DN cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất khác xây dựng Quy trình kỹ thuật thực hiện chuyển mạng, bảng mã lỗi kỹ thuật của hệ thống chuyển mạng; đảm bảo hệ thống cung cấp dịch vụ chuyển mạng tại DN và đường truyền dẫn kết nối tới Trung tâm chuyển mạng hoạt động ổn định, thông suốt...

screenshot-1839-(1).png
Các cá nhân có quyền được tra cứu điều kiện chuyển mạng, tra cứu khả năng chuyển mạng của mình.

Đặc biệt, cần cung cấp dịch vụ chuyển mạng theo Quy trình kỹ thuật thực hiện chuyển mạng; chỉ được phát triển thuê bao mới từ khối số thuê bao mà DN đó được phân bổ; đảm bảo bí mật thông tin của thuê bao đăng ký dịch vụ chuyển mạng theo quy định tại Điều 6 Luật Viễn thông ; chịu sự thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật...

“Đối với các cá nhân có quyền được tra cứu điều kiện chuyển mạng, tra cứu khả năng chuyển mạng của mình; có quyền yêu cầu DN chuyển đi, DN chuyển đến cung cấp lý do, bằng chứng từ chối chuyển mạng; có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ giấy tờ, tài liệu và điền đầy đủ thông tin tại Phiếu đăng ký sử dụng dịch vụ chuyển mạng theo quy định tại Điều 6 Thông tư này...”, dự thảo đề cập.

Bên cạnh các quyền, nghĩa vụ của DN, cá nhân được đề cập nêu trên, dự thảo cũng yêu cầu Cục Viễn thông, Bộ TT&TT cần đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị quản lý, vận hành, khai thác Trung tâm chuyển mạng và DN cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất thực hiện chuyển mạng theo các quy định tại Thông tư này.

Đồng thời, cần ban hành Quy trình kỹ thuật thực hiện chuyển mạng; thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chuyển mạng theo quy định của pháp luật.

Đối với đơn vị quản lý, vận hành, khai thác Trung tâm chuyển mạng, ngoài các nghĩa vụ được quy định tại Điều 12 dự thảo nghị định này cần: Ban hành hướng dẫn các DN cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất thiết lập đường truyền dẫn, kết nối đến Trung tâm chuyển mạng để cung cấp dịch vụ chuyển mạng theo các quy định tại Thông tư này; cung cấp thông tin định tuyến trong cơ sở dữ liệu thuê bao chuyển mạng cho các tổ chức, DN có nhu cầu định tuyến để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông...

Như vậy có thể nói, các nội quan trọng được đề cập trong văn bản trên một lần nữa cho thấy đây chính là những nỗ lực, tích cực của cơ quan quản lý nhà nước trong tiến trình phát triển số, vì một mục tiêu hiệu quả, an toàn, gia tăng quyền, lợi ích cho người sử dụng mạng. Và việc lấy ý kiến, tổng hợp các ý kiến đóng góp từ các tổ chức, đơn vị, DN, cá nhân sẽ góp phần xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hoá văn bản đáp ứng phù hợp với sự phát triển của xã hội số, công dân số hiện nay./.

NM