Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong gần 40 năm đổi mới
Truyền thông - Ngày đăng : 08:26, 04/12/2024
Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong gần 40 năm đổi mới
Gần 40 năm đất nước tiến hành đổi mới, Việt Nam luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ để tạo môi trường hòa bình, ổn định, là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia nhằm có những điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của các nước trên thế giới để phát triển văn hóa, kinh tế - xã hội và tăng cường an ninh - quốc phòng vững mạnh, nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (năm 1986) đến nay, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định xuyên suốt qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Khi đó, Việt Nam đang trong hoàn cảnh đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, cả về kinh tế - xã hội lẫn quan hệ đối ngoại. Tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, sụp đổ, tan rã. Trong khi đó, nước ta không còn nhận viện trợ, đầu tư từ các nước XHCN, nền kinh tế bị thu hẹp, cô lập, cấm vận, nhất là đối với thị trường các nước ngoài khối XHCN.
Trước tình hình đó, Đảng ta kịp thời phân tích, đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Theo đó, Đại hội VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tranh thủ điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào phân công và hợp tác quốc tế trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), đồng thời mở rộng quan hệ với các nước khác.
Không chỉ vậy, Đảng ta chủ trương “tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”. Chủ trương này của Đảng thể hiện cách tiếp cận mới, đó là độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, từ đó mở đường cho tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm đầu đổi mới.
Đến Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sơ bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”. Điểm mới trong nhận thức lý luận về độc lập, tự chủ là Đảng ta đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời coi đây là bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
Về đối ngoại, Đại hội VII của Đảng đề ra nhiệm vụ “tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”.
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng mở rộng cách tiếp cận về nội hàm độc lập, tự chủ từ nâng cao ý thức độc lập, tự chủ đến yêu cầu tạo lập được vị thế độc lập, tự chủ bao gồm “độc lập, tự chủ về kinh tế, quốc phòng, an ninh”, sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập... và “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế”.
Cái mới trong nhận thức và phát triển lý luận về độc lập, tự chủ của Đại hội VIII của Đảng là đưa thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” vào văn kiện, đồng thời làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc”.
Đại hội IX (năm 2001) của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc, khó lường, trong đó chính trị cường quyền nổi lên và kinh tế thế giới dần lâm vào suy thoái, khủng hoảng; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế khách quan, đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
Trước tình hình đó, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ tiếp tục được Đảng ta nhận thức, bổ sung đầy đủ hơn, gắn quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa...”. Chủ trương này phản ánh bước chuyển lớn về tư duy lý luận độc lập, tự chủ trong đường lối đối ngoại của Đảng.
Quan điểm chỉ đạo được Đại hội IX đưa ra là: “phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế..., kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Mở rộng quan hệ với các nước, trung tâm kinh tế quốc tế, nhưng không để nền kinh tế nước nhà bị lệ thuộc hay chịu sự chi phối từ bên ngoài.
Tại Đại hội X (năm 2006) của Đảng, chủ trương hội nhập đưa ra là: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác...”. Đồng thời bổ sung: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước... Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương”.
Đến Đại hội XI (năm 2011), nhận thức lý luận của Đảng về độc lập, tự chủ được khẳng định rõ hơn khi thống nhất dùng khái niệm “độc lập, tự chủ” thay cho “độc lập tự chủ” để thể hiện đúng hai mặt “độc lập” và “tự chủ” của “chủ quyền quốc gia”.
Trên cơ sở nhận thức đúng về xu thế thời đại và cục diện thế giới, Đại hội XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục khẳng định quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong mười mối quan hệ lớn, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt.
Đồng thời, trên cơ sở làm sáng tỏ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, Đảng ta chỉ đạo việc thực hiện các chính sách: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Cho tới Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó đoán định. Đại dịch COVID-19 gây đảo lộn nghiêm trọng về kinh tế, xã hội toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”.
Đồng thời, tiếp tục nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”.
Có thể thấy, Việt Nam luôn nhất quán và kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại không những tuân thủ theo luật pháp quốc tế mà còn khéo léo, linh hoạt bảo vệ độc lâp, tự chủ, tự cường dân tộc. Do đó, quan hệ đối ngoại của Việt Nam được mở rộng, đi vào chiều sâu và ổn định; chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; đời sống nhân dân được nâng cao.
Hiện nay, Việt Nam thiết lập được quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia; là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Trên hợp tác đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm với hơn 70 tổ chức, tham gia nhiều diễn đàn quan trọng như: Liên hiệp quốc, WTO, ASEAN, APEC, ASEM,… Những thành tựu to lớn đã khẳng định cho tính đúng đắn, hiệu quả, phù hợp của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay các thế lực thù địch xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chúng lập luận rằng, thế giới hiện nay đang là thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các quốc gia, dân tộc có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, nên việc Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “tự mình cô lập mình”, là “tự tách ra khỏi dòng chảy của thế giới bên ngoài”, chính sách đối ngoại đó đã thực sự “lạc hậu, lỗi thời”, “không còn phù hợp” và đã trở thành “lực cản” đối với sự phát triển đất nước.
Có thể khẳng định đây là những luận điệu xuyên tạc nhằm mục đích bôi nhọ, bóp méo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta.
Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời cuộc, Việt Nam kiên định đường lối độc lập, tự chủ, coi đây vừa là mục tiêu cao nhất, vừa là nguyên tắc bất biến bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Những thành tựu của chúng ta đạt được từ việc nhất quán thực hiện đường lối, chính sách đó là rất quan trọng, được các tầng lớp nhân dân phấn khởi, tự hào và tin tưởng, được các nước trên thế giới đánh giá cao và bạn bè quốc tế ủng hộ, tôn trọng. Đó là thực tế sáng rõ mà không ai có thể phủ nhận.
Với những thành tựu nổi bật Việt Nam đã đạt được trong gần 40 năm đổi mới đất nước, trong đó Đảng ta khẳng định một trong những nguyên nhân thắng lợi là chính sách ngoại giao đúng đắn. Đường lối độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa đã góp phần quan trọng tạo môi trường hòa bình, ổn định, điều kiện thuận lợi và tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Do vậy, có thể khẳng định, Việt Nam nhất quán, kiên định thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa xuất phát trước hết vì lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại là hòa bình, độc lập, phát triển và hội nhập quốc tế./.