Bình dân học vụ số chìa khoá của kỷ nguyên số
Chuyển đổi số - Ngày đăng : 06:30, 03/02/2025
Bình dân học vụ số chìa khoá của kỷ nguyên số
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, gần 1/3 số nghề mới hiện nay không tồn tại cách đây 1/4 thế kỷ, và sau 1/4 thế kỷ nữa sẽ có 60% số nghề chưa xuất hiện bây giờ.
Tóm tắt:
- Kinh nghiệm phổ cập giáo dục số của các nước:
+ Các quốc gia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức và phổ cập kỹ năng số.
+ Hợp tác giữa chính phủ, doanh nghiệp, trường học và truyền thông là chìa khóa thành công.
+ Đầu tư vào giáo dục công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng xu hướng công nghệ.
- Phong trào Bình dân học vụ (1945): Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch xóa nạn mù chữ, yêu cầu toàn dân tham gia; Hơn 2,5 triệu người biết chữ sau một năm, phong trào duy trì suốt kháng chiến.
- Chuyển đổi số hiện nay:
+ Đặt mục tiêu đến 2025: Top 50 Chính phủ điện tử toàn cầu, phổ cập danh tính số, nâng cao kỹ năng số.
+ Thách thức: Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực CNTT (đặc biệt AI, IoT); Tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn thấp (3-4%).
- Phong trào “Bình dân học vụ số”:
+ Mục tiêu: Phổ cập tri thức số, nâng cao kỹ năng số, xóa mù công nghệ cho toàn dân.
+ Tổ công nghệ số cộng đồng (2022) thúc đẩy người dân tiếp cận nền tảng số.
+ Khuyến khích phát triển hạ tầng Internet miễn phí tại vùng sâu, vùng xa.
- Vai trò của chính phủ và doanh nghiệp:
+ Chính phủ: Định hướng, hỗ trợ, khởi xướng phong trào.
+ Doanh nghiệp: Hợp tác, quảng bá sản phẩm qua quá trình “xóa mù số”.
Kinh tế số là sử dụng các thành tựu công nghệ số và các dữ liệu để tạo ra mô hình kinh doanh mới, hoạt động theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại, sử dụng các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mới, nhằm tăng trưởng doanh nghiệp (DN), nâng cao sức cạnh tranh và năng suất lao động, đáp ứng nhanh chóng, thuận tiện, hiệu quả hơn nhu cầu của người dân và xã hội. Chuyển đổi số (CĐS) quốc gia là việc chuyển toàn bộ hoạt động của quốc gia lên không gian số, là sự thay đổi lớn chưa từng có trong lịch sử loài người.
Trong quá trình đẩy mạnh việc CĐS, phát triển kinh tế số theo hướng lấy DN và người dân làm trung tâm, toàn dân và toàn diện, thì việc phổ cập “hiểu biết số”, nâng cao ý thức, kỹ năng số trên không gian mạng, là yếu tố quan trọng, là chìa khoá để mỗi quốc gia, DN và người dân chủ động, tự tin vững bước vào kỷ nguyên số đang và sẽ bùng nổ trong tương lai…
Kinh nghiệm một số nước về phổ cập giáo dục số
1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ, song Viện Nghiên cứu chính sách chiến lược Australia từng cảnh báo Mỹ và phương Tây rằng, Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về 37/44 công nghệ mũi nhọn, trong đó có trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ 5G, thực tế ảo, ô tô tự lái, in 3D, robot, thiết bị bay không người lái…, trong khi Mỹ chỉ còn đi đầu trong một số lĩnh vực, như: sản xuất vaccine, điện toán lượng tử và các hệ thống phóng không gian.
Theo Báo cáo của Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey (MGI, 2017), 1/3 trong số 262 “unicorn” (các công ty khởi nghiệp được định giá trên 1 tỷ USD) trên thế giới hiện nay là của Trung Quốc, chiếm 43% tổng giá trị của các “unicorn” trên toàn cầu. Công nghệ số có thể thay đổi và tạo ra khoảng từ 10% - 45% doanh thu công nghiệp của Trung Quốc vào năm 2030. Internet đóng góp 1% tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc từ năm 2013 đến năm 2025.
Đặc biệt, kể từ năm 2015, Trung Quốc đã vươn lên dẫn đầu thương mại điện tử (TMĐT) thế giới, với tổng giao dịch hiện lớn hơn tổng của Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh và Mỹ. Mua sắm trực tuyến chiếm 18% tổng doanh số bán lẻ, so với chỉ 8% ở Mỹ. Mỗi năm, Tập đoàn TMĐT Alibaba xử lí số giao dịch mua bán nhiều hơn cả Ebay và Amazon cộng lại.
Với thế mạnh về game trực tuyến và mạng xã hội, Tencent hiện là công ty có giá trị lớn thứ 10 toàn cầu (khoảng 275 tỷ USD). Còn Baidu là công ty thống trị mảng công cụ tìm kiếm tại thị trường nội địa sau khi Google phải rút khỏi thị trường do bị kiểm duyệt. Ba nền tảng công nghệ hàng đầu này của Trung Quốc đã phát triển đến trình độ có thể cạnh tranh với các ông lớn về công nghệ ở Mỹ là Amazon, Apple, Facebook, Google và Netflix.
Trung Quốc hiện cũng đang số hóa các ngành ngân hàng, tài chính, dịch vụ hành chính công, dịch vụ y tế và các dịch vụ giáo dục. Năm 2016, có đến 790 tỷ USD khoản thanh toán của bên thứ ba được thực hiện qua giao dịch di động, cao hơn Mỹ đến 11 lần. Trung Quốc hiện được coi là một trong những thị trường thanh toán di động tiên tiến nhất thế giới với sự phủ sóng rộng khắp của WeChat Pay và Alipay, giúp người dùng có thể thanh toán gần như mọi dịch vụ, nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống mà không cần tới tiền mặt. Trung Quốc là thị trường Internet và smartphone lớn nhất thế giới.
Từ việc mua sắm, ăn uống tới đi taxi hay chơi game, tất cả đều đi kèm tùy chọn thanh toán trực tuyến và di động. Điều này khiến Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế không dùng tiền mặt đầu tiên trên thế giới trong tương lai không xa.
Sự thành công trong lĩnh vực công nghệ số của Trung Quốc là nhờ sự quyết đoán các lãnh đạo nhà nước, nhờ sự bùng nổ của smartphone và hệ sinh thái số phong phú tại thị trường đông dân nhất thế giới và nhờ sự nhạy bén của nhiều nhà điều hành dịch vụ bán lẻ và tài chính khi nhanh chóng chấp nhận các hình thức thanh toán di động.
Đặc biệt, chính phủ nước này thể hiện tích cực cả 4 chức năng: Tạo môi trường thể chế và điều kiện thuận lợi cho các DN số hoạt động và thử nghiệm; Là nhà đầu tư lớn và cũng là người tiêu dùng các công nghệ số lớn trong nước; Hơn nữa, chính phủ rất coi trọng nâng cao nhận thức số cho người dân và DN. Theo khảo sát của tổ chức Forex Bonuses đầu năm 2017, tỷ lệ người dân nhận thức được các dịch vụ thanh toán di động tại Trung Quốc lên tới 77%, vượt xa nhiều nền kinh tế khác trong danh sách như Úc, Đức, Nhật Bản và Nga.
Sự tăng trưởng vượt bậc về công nghệ di động, thanh toán, sự hiểu biết về kinh tế số và mức độ chấp nhận chúng trong các giao dịch tiền tệ đang giúp Trung Quốc nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các cường quốc kinh tế và công nghệ, như Mỹ, Anh, Pháp.
1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Thuộc TOP dẫn đầu nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G-20) và nhóm các nước dẫn đầu về Chỉ số sẵn sàng về Chính phủ điện tử (CPĐT) do Liên Hợp Quốc xây dựng, Hàn Quốc ngay từ những năm 1980 đã bắt tay triển khai dự án Hệ thống thông tin cơ bản quốc gia (NBIS), ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trên toàn quốc, với hàng ngàn các dịch vụ công (DVC) đã có sẵn trên mạng thông qua các biểu mẫu điện tử trên khắp các trang web chính phủ trung ương, khu vực và địa phương, tập trung vào 3 mảng dịch vụ chính, bao gồm: (1) Chính phủ vì Công dân (G4C); (2) Chính phủ với DN (G2B); và (3) Chính phủ với Chính phủ (Dịch vụ liên Chính phủ - G2G).
Hàn Quốc đã chủ động thực hiện kịp thời và mạnh mẽ các chính sách và sáng kiến về giáo dục CNTT và phổ cập Internet cho người dân, hướng dẫn công chúng nắm, áp dụng mạng Internet và CNTT vào cuộc sống hàng ngày. Hiện tất cả các trường tiểu học và trung học trên toàn quốc và 99,2% số hộ gia đình Hàn Quốc kết nối mạng Internet, đứng đầu trong số 175 quốc gia thuộc Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU). Theo Tổ chức nghiên cứu Internet Akamai, Hàn Quốc hiện là quốc gia có tốc độ kết nối Internet nhanh nhất thế giới, vượt trên cả Nhật Bản và Mỹ.
Đặc biệt, chính phủ Hàn Quốc khuyến khích xây dựng mối quan hệ hợp tác gắn kết giữa khu vực tư nhân được chính phủ hậu thuẫn với khu vực công trong xây dựng hạ tầng mạng Internet; đồng thời, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới sáng tạo (ĐMST) của khu vực tư nhân thông qua các chính sách điều tiết nhất quán, giảm các trở ngại đối với các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) mới.
Ngay từ năm 1999, chính phủ đã cho phép chữ ký điện tử được sử dụng làm bằng chứng trong các vấn đề pháp lý; đồng bộ các quy định liên quan đến bảo vệ thông tin cá nhân và hướng dẫn khu vực tư nhân sử dụng công nghệ mã hóa.
Đến năm 2000, khoảng 15 tổ chức liên quan đến TMĐT đã đưa vào vận hành Diễn đàn TMĐT Tích hợp nhằm thúc đẩy tiêu chuẩn hóa trong nước và quốc tế các nền tảng TMĐT.
Ngân hàng điện tử (E-banking) cũng đã được giới thiệu tại Hàn Quốc từ năm 1999. Đến năm 2010, 42,3% người dùng Internet ở độ tuổi 12 trở lên đã sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Mức độ sử dụng bình quân cho ngân hàng Internet là 4,9 lần mỗi tháng. Hầu hết người dùng Internet banking thông qua máy tính (96,2%), trong khi 9,2% sử dụng điện thoại di động. Năm 2015, TMĐT đã chiếm trên 40% tất cả các giao dịch thương mại, trong đó, giao dịch B2B chiếm hơn 90% và giao dịch B2G chiếm gần 6%. Các ngân hàng thường tăng thêm 0,1-0,5% lãi suất huy động và giảm 0,5% điểm lãi suất cho vay đối với khách hàng đăng ký Internet banking.
Ngoài ra, giải trí điện tử cũng là nội dung quan trọng góp phần thúc đẩy chính sách phát triển nền kinh tế số của Hàn Quốc. Thị trường game online tại Hàn Quốc có hơn 15 triệu người đăng ký chơi. Sự phổ biến của các cổng chơi game như Netmarble, Hangame và Pmang mang về doanh thu lớn và ước tính có khoảng 10 triệu người trưởng thành của Hàn Quốc chơi game qua các cổng này mỗi tháng. Phần lớn các trò chơi trực tuyến cho phép chơi miễn phí và lợi nhuận tạo ra thông qua việc bán các mặt hàng ảo.
Các công ty game trực tuyến hàng đầu là NHN, Nexon, NCsoft, Neowiz và CJ Internet. Vào đầu năm 2010, Tòa án Tối cao Hàn Quốc đã phán quyết rằng các loại tiền ảo có thể được trao đổi cho tiền thật và các giao dịch sử dụng "tiền ảo" sẽ bị đánh thuế.
1.3. Kinh nghiệm của Malaysia
Để phát triển kinh tế số, Malaysia quan tâm phát triển cả hạ tầng số và đào tạo nhân lực số. Năm 2016, có tới 95,4% tổng dân số dùng mạng di động băng thông mạng Internet quốc tế là 27,2 Kbps trên mỗi người dùng và tốc độ kết nối mạng 4G đạt khoảng 20 Mbps. Chính phủ Malaysia cam kết sẽ cung cấp mạng lưới mạng kỹ thuật số tốc độ, chất lượng cao phủ sóng trên toàn đất nước và chi hàng chục triệu USD để tiếp tục các dự án thử nghiệm đối với công nghệ 5G.
Ủy ban Truyền thông Đa phương tiện Malaysia (MCMC - Malaysia Communications and Multimedia Commission) đã thành lập dự án 5G Task Force với mục tiêu nghiên cứu và đề xuất cho Chính phủ một chiến lược triển khai 5G toàn diện, bao gồm những phương án về: (1) cơ sở hạ tầng, (2) phân bổ và quản lý phổ, (3) xây dựng hệ thống quy định pháp lý; (4) bảo vệ người tiêu dùng.
Malaysia sớm triển khai các chiến dịch định hướng, đào tạo, cung cấp cho người dân nhận thức về tiềm năng cơ hội, kiến thức cơ bản trong nền kinh tế số. Trong đó, nổi bật là chương trình đào tạo mang tên “eUsahawan” nhằm hỗ trợ những người kinh doanh trẻ ở khu vực nông thôn bổ sung, ứng dụng các kỹ năng về truyền thông, quảng cáo, tăng doanh số bán hàng và cải thiện thu nhập.
Đồng thời, với nền tảng “eRezeki”, Chính phủ Malaysia cũng tạo nhiều cơ hội việc làm cho tất cả người dân Malaysia, từ những người thợ sửa ống nước đến những người phụ nữ nội trợ. Thông qua đây, họ có thể đăng ký để trở thành những công nhân kỹ thuật số, làm những nhiệm vụ dựa trên các kỹ năng kỹ thuật số đơn giản và kiếm thêm thu nhập mà không cần phải ra khỏi nhà.
Đặc biệt, từ năm 1996, Chính phủ Malaysia đã đưa ra chương trình “MSC Malaysia” (MSC) hỗ trợ phát triển các công ty công nghệ địa phương, thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến nay, Chương trình này đã tập hợp, thu hút được 2.954 thành viên là các công ty tư nhân phát triển trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, như phân tích dữ liệu lớn (BDA - Big Data Analytics), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (Blockchain), robot, in 3D, công nghệ tài chính (Fintech),… tại Malaysia; tạo ra khoảng 114 tỷ USD doanh thu và 182.538 việc làm... Các DN thành viên tham gia được hưởng những ưu đãi cắt giảm 70% - 100% thuế thu nhập của DN trong vòng 5 - 10 năm nếu tuân thủ đầy đủ những điều kiện mà chương trình đưa ra.
MSC còn thông qua các dự án như: The Orbit, Cybercity, Trung tâm Kỹ thuật số, hay Trung tâm Nội dung sáng tạo và Hoạt hình của MSC Malaysia (MAC3 - The MSC Malaysia Animation and Creative Content Centre) thu hút không chỉ các DN, mà cả những sinh viên, học viên, và các chuyên gia trong lĩnh vực thành những khối gắn với mục tiêu khuyến khích sự chia sẻ nguồn lực, hợp tác và tiếp cận các phương pháp hiệu quả.
Bên cạnh đó, Malaysia còn xây dựng “Chương trình Doanh nhân Công nghệ Malaysia” (MTEP - Malaysia Tech Entrepreneur Programme) nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
MTEP có thể trao cơ hội cho những doanh nhân mong muốn xây dựng các dự án kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ bằng cách cấp thị thực 1 năm đối với người chưa có kinh nghiệm điều hành DN và 5 năm cho những người đã có kinh nghiệm.
1.4. Kinh nghiệm của Ấn Độ và Indonesia
Theo Văn phòng Thống kê Quốc gia Ấn Độ, hiện hơn 55% người Ấn Độ có quyền truy cập băng rộng, song chỉ có 20% có khả năng sử dụng Internet. Trong khi đó, trẻ em từ 5 tuổi trở lên là có thể có hiểu biết số và có thể điều hướng Internet thông qua trình duyệt web, sử dụng e-mail và tìm, đánh giá và thông tin liên lạc bằng các công cụ truyền thông xã hội. Báo cáo “Digital in India 2019” ghi nhận 99,9% người dùng Internet ở Ấn Độ sử dụng thiết bị di động để truy cập web.
Đặc biệt, Chương trình phổ cập hiểu biết số của Chính phủ Ấn Độ là một trong những chương trình giáo dục số lớn nhất trên thế giới cho đến nay.
Còn ở Indonesia Chương trình quốc gia về xóa mù kỹ thuật số (GNLD) áp dụng từ năm 2017 đến hết năm 2023, do Bộ Truyền thông và Tin học Indonesia (KOMIFO) triển khai cùng với 142 đối tác thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như học giả, công ty công nghệ và tổ chức dân sự, đã thu hút hơn 24,6 triệu người dân Indonesia tham gia.
Chương trình GNLD giúp phổ cập kiến thức và tăng cường khả năng kỹ thuật số cơ bản của người dân, nhất là về năng lực kỹ thuật số, an ninh kỹ thuật số, văn hóa kỹ thuật số và đạo đức kỹ thuật số; ngăn chặn sự lan truyền của thông tin sai lệch và tạo ra một không gian kỹ thuật số hiệu quả, thúc đẩy tiến trình CĐS quốc gia; Đồng thời, giúp tăng cường áp dụng công nghệ trong các DVC, hoạt động kinh tế, hòa nhập kỹ thuật số, thúc đẩy sự tham gia dân chủ của công dân và thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực cũng như phát triển kinh tế; giảm thiểu tác hại của nhiều chiêu trò lừa đảo qua Internet mà người dân có thể gặp phải.
Nhìn chung, kinh nghiệm nổi bật qua thực tiễn phát triển kinh tế của các nước nêu trên cho thấy cần coi trọng và đa dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền nâng cao nhận thức toàn xã hội về nền kinh tế số tạo động lực thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế số. Chính phủ, các cơ quan, DN và trường học, các cơ quan báo chí, truyền thông cần phối hợp phổ cập và tăng cường nhận thức đúng của người dân và DN về kinh tế số, các lợi ích và thách thức đi kèm, với các nội dung cụ thể theo từng ngành, lĩnh vực.
Việc xã hội hóa giáo dục CNTT, cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới, như Internet kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT), AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tốt, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực DN trong ứng dụng CNTT; Đồng thời, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành đội ngũ chuyên gia cao cấp ngành TMĐT, an ninh mạng, CNTT, truyền thông...
Từ bình dân học vụ từ xoá mù chữ đến xoá mù số ở Việt Nam
Theo số liệu của Nha học chính Đông Pháp năm 1930: Hơn 95% dân số Việt Nam (trong số khoảng 17 triệu người) không biết một thứ chữ gì. Riêng với phụ nữ, nạn mù chữ lên tới tỷ lệ 97,1% - 99,7%; Trong 100 người dân chỉ có 3 trẻ em từ 8 - 16 tuổi được đi học, 2 người lớn biết chữ, còn 95 người mù chữ. Ở vùng thôn xóm hẻo lánh hay vùng đồng bào thiểu số thì 100% người dân thất học.
Bởi vậy, trong lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng năm 1930, Nguyễn Ái Quốc nêu khẩu hiệu “Thực hành giáo dục toàn dân”, tức là phải phổ cập giáo dục. Theo đó, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội đã mở nhiều lớp học chữ quốc ngữ cho nhân dân lao động và thanh niên. Trong cao trào cách mạng 1930-1931, công cuộc chống nạn thất học được đẩy mạnh tại các khu Xô-viết.
Ngày 25-5-1938, Hội truyền bá học chữ quốc ngữ được thành lập, thu hút hàng vạn người đi học từ Hà Nội đến nhiều tỉnh và thành phố trên cả nước.
Ngày 3/9/1945, Bác Hồ chủ trì họp buổi đầu tiên của Hội đồng Chính phủ và chỉ rõ: "Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta mù chữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ". Thực hiện Chỉ thị của Bác, ngày 8-9-1945 Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ đã ký Sắc lệnh số 17: Đặt ra một Bình dân học vụ (BDHV) trong toàn cõi Việt Nam. Tiếp đó là Lệnh số 19: Thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối; Sắc lệnh số 20: Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong 1 năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ.
Đầu tháng 10/1945, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học. Người nói: “Hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được? Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí. Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Những người đã biết chữ hãy dạy cho người chưa biết chữ. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa biết thì chồng bảo, anh chưa biết thì em bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia… Phụ nữ lại càng cần phải học… phải cố gắng để… xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử...".
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, cả nước Việt Nam trở thành một trường học lớn, ai ai cũng coi việc đi học BDHV là một hành động yêu nước. Sau hơn một năm phát động, đến ngày 8-9-1946, cả nước đã có thêm 2.520.600 người biết đọc, biết viết; đã có 75.806 lớp học được mở với sự tham gia của 97.664 người dạy học, cung cấp cho phong trào 2.500.000 cuốn sách. Các lớp BDHV đi theo đồng bào tản cư kháng chiến, đi theo các đoàn dân công tiếp vận, theo tuyến giao liên, theo anh bộ đội, bên bếp lửa nhà sàn, trong những lán nhỏ dưới rừng già và thôn bản và bám trụ trong lòng địch, trong những vùng tạm bị chiếm, cho đến ngày tiếp quản Thủ đô 1954.
Sau kế hoạch 3 năm (1956-1958), nhân dân miền Bắc đã xóa xong nạn mù chữ cho hơn 10 triệu người, tiến lên bổ túc văn hóa. Đến ngày 28-12-2000, Việt Nam chính thức công bố 94% nhân dân ta đã xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học theo chuẩn quốc gia.
Chính vì những thành tích to lớn ấy, nhân ngày 8-9-1997, ngày Quốc tế chống nạn mù chữ, Hội đồng giải thưởng Quốc tế về xóa nạn mù chữ của tổ chức Liên Hợp quốc về giáo dục - khoa học và văn hóa (UNESCO) tổ chức xét duyệt tại Paris (Pháp) và đã quyết định tặng giải thưởng hạng danh dự về xóa mù chữ Roi Sejong cho Việt Nam. Việt Nam là 1 trong 2 quốc gia trên thế giới được trao giải thưởng danh dự này.
Có thể thấy, Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm quý trong thực hiện BDHV xoá mù chữ trong toàn dân trước kia và gần đây là phong trào xã hội hoá phổ cập kiến thức tin học cho cán bộ, công nhân viên chức (CBCNVC), sinh viên, học sinh và DN.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, trong đó nêu rõ: Thực hiện quyết liệt CĐS, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số, kích cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quy mô lớn, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, giải quyết việc làm. Theo đó, việc CĐS phải được diễn ra toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, y tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
Cụ thể hóa Đường lối Đại hội XIII của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó xác định một quan điểm rất cốt lõi, để đảm bảo thành công của Chương trình, đó là: Người dân là trung tâm của CĐS; vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số lớn mạnh để vươn ra thế giới; phấn đấu đến năm 2025, xếp hạng về CPĐT của Việt Nam vào top 50 thế giới; tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt 80%; số lượng giao dịch qua nền tảng, tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đạt 860 triệu giao dịch; tỷ lệ cung cấp dữ liệu mở của cơ quan Nhà nước đạt 100%.
Theo Bộ TT&TT, cơ quan Thường trực Ủy ban quốc gia về CĐS, có thể coi năm 2020 là năm khởi động nhận thức về CĐS; năm 2021 là năm bắt đầu triển khai, trải nghiệm về CĐS trong bối cảnh đại dịch; từ năm 2022 trở đi là giai đoạn tăng tốc CĐS với những hành động triển khai cụ thể theo từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương theo hướng lấy người dân làm trung tâm, toàn dân và toàn diện.
Tuy nhiên, trên thực tế, Việt Nam vẫn đang đứng trước nhu cầu “bình dân học vụ số”, tăng tốc phong trào giáo dục CĐS cho toàn dân.
Theo Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINISA), trong lĩnh vực CNTT - truyền thông, Việt Nam hiện có gần 900.000 lao động, trong đó có một số lượng lớn kỹ sư về AI (trí tuệ nhân tạo), IoT (Internet kết nối vạn vật) khoa học dữ liệu, số người được cấp chứng chỉ lớn. Tuy nhiên, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) những năm gần đây, dù có những cải thiện nhưng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn xếp hạng thấp đến trung bình khá về chất lượng, nhất là lao động chuyên môn cao và năng lực sáng tạo trong nền kinh tế số khi so sánh với thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề chỉ đạt 60%, vẫn còn có khoảng cách xa so với yêu cầu của cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 và CĐS.
Đặc biệt, trước cơ hội tham gia chuỗi cung ứng công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao, nhất là trong ngành bán dẫn, sản xuất chíp điện tử, Việt Nam đang cần tới trên 50.000 lao động có tay nghề cao trong lĩnh vực này và mới chỉ đang triển khai những bước đi đầu tiên để đào tạo gấp…
Sự thiếu hụt nguồn nhân lực CNTT về cả số lượng và chất lượng được xem là một trong những mối thách thức lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế số của Việt Nam.
CĐS chỉ thành công khi được người dân hiểu, hưởng ứng và tham gia; người dân trở thành công dân số, có các hoạt động được đưa lên môi trường số. Trên thực tế, kết quả triển khai nhiều nhiệm vụ về CPĐT còn rất chậm và nhiều nơi thực hiện mang tính hình thức; Tỷ lệ cán bộ, công chức làm việc với văn bản điện tử, hồ sơ số chưa nhiều; Số lượng người dân sử dụng DVC trực tuyến (DVCTT) thực tế còn thấp so tỷ lệ người sử dụng Internet trên cả nước. Đa số người dân vẫn chủ yếu làm việc với chính quyền theo các quy trình tiếp xúc trực tiếp và dựa trên giấy tờ tại bộ phận “một cửa” để thực hiện các thủ tục hành chính (TTHC).
Theo kết quả khảo sát được công bố tại tọa đàm chuyên đề "Đánh giá mức độ thân thiện với người dùng của 63 Cổng Dịch vụ công trực tuyến cấp tỉnh lần thứ nhất năm 2023", do Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam và Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) phối hợp tổ chức, thì chỉ có 3,05% số người được phỏng vấn cho biết họ đã lập hồ sơ người dùng trên Cổng DVC Quốc gia, và hơn 1% đã sử dụng Cổng DVC để làm TTHC.
Kết quả phân tích 200 phản ánh kiến nghị về DVCTT đăng tải trên Cổng DVC quốc gia cũng chỉ ra hạn chế ở cả ba phương diện: Kỹ thuật, con người và quy trình triển khai DVCTT.
Thống kê từ Cục Kiểm soát TTHC (Văn phòng Chính phủ) cũng cho thấy: Đến tháng 7/2023, tỷ lệ hồ sơ DVCTT, số lượng người dùng tương tác trên các cổng DVC cũng như Cổng DVC Quốc gia đạt khoảng 60% số hồ sơ nộp trực tuyến; trong đó, chỉ khoảng 32% do người dân trực tiếp thực hiện, còn 28% vẫn phải có sự hỗ trợ của cán bộ, công chức Nhà nước.
Ngoài ra, hiện 62 Cổng cấp tỉnh không cung cấp chức năng tìm kiếm bằng giọng nói, trong khi công cụ tìm kiếm của 25 Cổng không cho kết quả nếu từ khóa tìm kiếm bị viết sai chính tả, gây khó khăn cho người dân tộc thiểu số có thể không giỏi viết tiếng Việt.
Ở góc độ người dân, để có thể sử dụng DVCTT người dân cần đáp ứng được ba yếu tố: có thiết bị (điện thoại thông minh hoặc máy tính); có đường truyền Internet; và sau cùng nhưng lại quan trọng nhất là người dùng cần có khả năng, trình độ để sử dụng thành thạo thiết bị và DVC. Đây là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động của CĐS, là điều kiện để hình thành công dân số. Phải để công dân sinh sống và hoạt động trên môi trường số thì mới hình thành được thị trường số. Khi hình thành thị trường số thì kinh tế số mới có điều kiện phát triển.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ ra 6 nội dung trọng tâm cần thực hiện về CĐS trong thời gian tới, gồm: Xây dựng, nâng cao nhận thức về CĐS; xây dựng, hoàn thiện thể chế về CĐS; phát triển DN công nghệ số; phát triển nguồn nhân lực số; đổi mới sáng tạo số; phát triển hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu…
Bởi vậy, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, phát triển hạ tầng số và phát triển một số nền tảng số quan trọng, Nhà nước cần sớm triển khai một phong trào “Bình dân học vụ số” cấp quốc gia nhằm thúc đẩy “xoá mù số” và phổ cập, cập nhật nhận thức và kiến thức, kỹ năng về số cho người dân và DN, phổ cập được danh tính số, phổ cập an toàn an ninh mạng cho toàn xã hội. Mỗi người dân cần được trang bị phần mềm, có kỹ năng cơ bản để tham gia và bảo vệ mình khi hoạt động trên môi trường mạng, tạo nền tảng thúc đẩy CĐS và phát triển kinh tế số ở Việt Nam cả cấp vĩ mô và vi mô, hiện tại và tương lai…
Phong trào BDHV số này cần được cụ thể hoá thành các chương trình, dự án thiết thực phù hợp với từng giai đoạn, rõ mục tiêu, nguồn lực, đối tượng và kết quả thực hiện.
Đầu tháng 3/2022, Bộ TT&TT đã hướng dẫn các địa phương trên cả nước thí điểm triển khai Tổ công nghệ số cộng đồng (CNSCĐ) như là "cánh tay nối dài" của Ban Chỉ đạo CĐS từ tỉnh, huyện đến xã, phường, thị trấn, tổ, đội, góp phần tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân cài đặt, đăng ký và sử dụng DVCTT; hướng dẫn các hộ kinh doanh, sản xuất khai thác ứng dụng kinh doanh trên nền tảng số; kết nối để chuyển tải các vấn đề, khó khăn mà người dân sử dụng Cổng DVC gặp phải... từ đó nghiên cứu, đề xuất với các cấp cao hơn để có các biện pháp tháo gỡ.
Theo số liệu thống kê của Cục Tin học hóa, Bộ TT&TT, tính đến ngày 11/5/2022, cả nước đã có 14 tỉnh, thành phố thành lập 9.388 Tổ CNSCĐ với 44.516 thành viên tham gia. Lạng Sơn và Hưng Yên là 2 địa phương đã hoàn thành việc triển khai các Tổ CNSCĐ đến 100% cấp xã. Việc đưa nền tảng số, công nghệ số, kỹ năng số đến người dân thông qua các Tổ CNSCĐ là nhằm thúc đẩy CĐS, đưa người dân lên môi trường số, để người dân tiên phong sử dụng nền tảng số, công nghệ số, qua đó trở thành tác nhân thúc đẩy chính quyền CĐS mạnh mẽ hơn. Đây cũng là 1/22 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được Bộ TT&TT đề nghị các địa phương tập trung triển khai trong những năm gần đây và tới đây.
Ngoài ra, các địa phương nên khuyến khích huy động các nguồn lực xây dựng các điểm truy cập Internet miễn phí tại các vùng dân cư, nhất là các vùng hẻo lánh, tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận với Internet và sử dụng các DVCTT; Đồng thời, cùng với việc đa dạng hoá phương thức và thay đổi chương trình đào tạo theo kịp các xu thế công nghệ mới, đẩy nhanh việc xã hội hóa giáo dục CNTT bằng việc tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên sớm tiếp cận lĩnh vực này, thì cũng rất cần thay đổi giáo dục theo hướng tăng tính tự học, tự cập nhật và học suốt đời.., cho người dân.
Nói cách khác, “Bình dân học vụ số”, với mục đích nhanh chóng phổ cập tri thức cơ bản về CĐS cho toàn dân, cho cả cán bộ chính quyền, giống như “xóa mù chữ” trước đây, và lực lượng để làm việc này cũng là từ tất cả mọi thành phần trong xã hội, chứ không phải là công việc chỉ của các cơ quan nhà nước.
Với “Bình dân học vụ số”, Chính phủ đóng vai trò “khởi xướng” “kiến tạo”, “tuyên truyền”, “định hướng”, “ủng hộ và chia sẻ” với DN. Những cá nhân, tổ chức, DN tham dự vào quá trình “bình dân học vụ số” vừa ích nước, vừa lợi nhà, vì sẽ quảng bá được hình ảnh và dịch vụ của chính mình, tăng nhận dạng và xúc tiến thị trường của DN khi số công dân được “xóa mù CĐS” tăng trong tương lai. Người dân tham gia vào quá trình đào tạo và học tập, nâng cao nhận thức và có tri thức ứng dụng thành quả CĐS vào cuộc sống của mình, làm lợi cho cộng đồng và cho chính mình…/.
Tài liệu tham khảo:
1/. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 4; T. 10;
2/. Lê Mậu Hãn (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, Nxb Văn hóa Thông tin, H, 2006, T.1
3/. https://tapchilichsudang.vn/phong-trao-binh-dan-hoc-vu-1945-1946.html;
4/. https://tapchicongthuong.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-phat-trien-nen-kinh-te-so-va-ham-y-chinh-sach-cho-viet-nam-74202.htm;
5/. https://mic.gov.vn/thuc-day-pho-cap-hieu-biet-so-tai-an-do-197157305.htm;
6/.https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/ky-niem-58-nam-ngay-binh-dan-hoc-vu-8-9-1945-8-9-2003-nho-loi-bac-mot-dan-toc-dot-la-mot-dan-toc-yeu-2174.
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 1+2 tháng 1+2 năm 2025)