“Bộ tứ trụ cột” giúp Việt Nam cất cánh - Tư duy chiến lược từ chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm
Tạp chí online - Ngày đăng : 12:25, 29/06/2025
“Bộ tứ trụ cột” giúp Việt Nam cất cánh - Tư duy chiến lược từ chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm
Thế giới đang trải qua những biến động sâu sắc với sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và cạnh tranh địa chính trị ngày càng gay gắt, Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội lớn lẫn những thách thức không nhỏ để phát triển bền vững và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Tóm tắt
- Việt Nam đối mặt với cơ hội và thách thức trong kỷ nguyên số, cần cải cách toàn diện để phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc tế.
- Bộ tứ trụ cột: Tổng Bí thư Tô Lâm xác định 4 Nghị quyết (66, 68, 57, 59) là nền tảng chiến lược cho sự phát triển đất nước.
- Tư duy mới: Chuyển từ quản lý sang phục vụ, từ bảo hộ sang cạnh tranh sáng tạo, từ hội nhập bị động sang chủ động, đột phá đồng bộ.
- Nghị quyết 66: Hoàn thiện pháp luật minh bạch, đồng bộ, xoá bỏ chồng chéo, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
- Nghị quyết 68: Khẳng định vai trò động lực của kinh tế tư nhân, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích đổi mới sáng tạo.
- Nghị quyết 57 - Khoa học công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST): Đầu tư R&D, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số (CĐS), tập trung vào AI, bán dẫn, năng lượng tái tạo.
- Nghị quyết 59: Phát triển nhân lực chất lượng cao, gắn giáo dục với CĐS, thu hút nhân tài, đáp ứng kinh tế tri thức.
- Thể chế pháp luật hỗ trợ kinh tế tư nhân, KHCN cung cấp công cụ, nhân lực chất lượng cao vận hành chiến lược phát triển.
- Giải pháp chiến lược: Cụ thể hóa nghị quyết thành chương trình hành động với KPI rõ ràng, tăng đầu tư R&D, hợp tác công - tư - trí thức.
- Xây dựng Chính phủ số, linh hoạt, minh bạch, lấy dân và doanh nghiệp (DN) làm trung tâm, thúc đẩy dân chủ trong chính sách.
- Mục tiêu: Thực hiện đồng bộ 4 Nghị quyết để Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, hùng cường vào năm 2045.
-Mỗi cấp ủy, tổ chức, cá nhân biến cam kết thành kết quả, thắp lên ngọn lửa đổi mới và khát vọng phát triển đất nước.
Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, mang tính lịch sử. Tuy nhiên, trước yêu cầu đặt ra của tình hình mới đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cuộc cải cách toàn diện, sâu sắc và đồng bộ, tạo ra những đột phá mới về thể chế, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và tinh gọn, hiệu quả hóa bộ máy Nhà nước.
Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW và 68-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra “Bộ tứ trụ cột” gồm bốn Nghị quyết chiến lược là nền tảng cốt lõi giúp Việt Nam cất cánh: (1) Nghị quyết 66-NQ/TW: Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; (2) Nghị quyết 68-NQ/TW: Phát triển kinh tế tư nhân; (3) Nghị quyết 57-NQ/TW: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; (4) Nghị quyết 59-NQ/TW: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Bốn nghị quyết lớn của Bộ Chính trị không chỉ là các văn kiện chính trị, mà còn là những trụ cột chiến lược, đã cùng tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Mặc dù mỗi nghị quyết tập trung vào một lĩnh vực trọng yếu, nhưng chúng liên kết chặt chẽ, bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện và bền vững của Việt Nam.
Điểm đột phá chung của cả bốn Nghị quyết là tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, trong quy định pháp luật còn tồn tại, gây cản trở đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư. Phân cấp, phân quyền còn hạn chế; thủ tục hành chính rườm rà; tổ chức thực thi pháp luật vẫn là khâu yếu, thiếu cơ chế phản ứng chính sách linh hoạt và chậm điều chỉnh đối với các vấn đề mới phát sinh.
Thể chế pháp luật (Nghị quyết 66) tạo khung pháp lý vững chắc để kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68) phát triển mạnh mẽ.
Khoa học, công nghệ (Nghị quyết 57) cung cấp công cụ và giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh (SXKD), đồng thời yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao (Nghị quyết 59) để vận hành và phát triển.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định để thực hiện hiệu quả các chính sách và chiến lược phát triển trong các lĩnh vực khác.
Sự phối hợp đồng bộ giữa các trụ cột sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, giúp Việt Nam vượt qua thách thức và nắm bắt cơ hội trong kỷ nguyên mới.
Thể chế pháp luật hiện đại - Nền móng quốc gia pháp quyền
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đạt được những kết quả quan trọng. Tư duy lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ, minh bạch, cơ bản bao quát đầy đủ các lĩnh vực đời sống, tạo nền tảng pháp lý cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), bảo đảm quốc phòng, an ninh (QPAN) và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, công tác xây dựng và thi hành pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế. Một số chủ trương của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời; tư duy xây dựng pháp luật còn nặng về quản lý; chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong quy định pháp luật còn tồn tại, gây cản trở đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư. Phân cấp, phân quyền còn hạn chế; thủ tục hành chính rườm rà; tổ chức thực thi pháp luật vẫn là khâu yếu, thiếu cơ chế phản ứng chính sách linh hoạt và chậm điều chỉnh đối với các vấn đề mới phát sinh.
Chính vì vậy, Nghị quyết 66-NQ/TW chính là đang khơi thông các điểm nghẽn về thể chế, xây dựng và thực thi pháp luật, để các đột phá khác có thể phát huy hiệu quả. Việc hoàn thiện thể chế pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động KT-XH, đảm bảo quyền lợi của người dân và doanh nghiệp (DN), đồng thời nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Cụ thể:
- Nghị quyết 66-NQ/TW đặt ra yêu cầu đổi mới toàn diện quy trình xây dựng, thi hành và giám sát pháp luật, nhằm đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch, và tiên tiến. Thể chế pháp luật đóng vai trò là xương sống của quốc gia phát triển.
- Xoá bỏ tình trạng pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu khả thi.
- Chuyển từ tư duy “quản lý” sang tư duy “phát triển”, lấy người dân và DN làm trung tâm phục vụ.
- Tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của Nhà nước, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhân dân, bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách.
- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin (CNTT) và CĐS trong xây dựng và thi hành pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn.
- Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức trong sáng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội. hủ nghĩa.
- Hoàn thiện thể chế pháp luật không chỉ là yêu cầu cấp thiết trong tiến trình hiện đại hóa đất nước, mà còn là nền tảng để Việt Nam hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, khẳng định vị thế, uy tín của một quốc gia pháp quyền trong thời đại toàn cầu hóa.
- Xây dựng hệ sinh thái DN tư nhân ĐMST, lấy công nghệ và tri thức làm nền tảng cho tăng trưởng dài hạn.
- Phát triển các tập đoàn tư nhân đầu đàn có đủ năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu, đóng vai trò dẫn dắt chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
Kinh tế tư nhân - Động lực trung tâm của tăng trưởng
Gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi mới, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam ngày càng được khẳng định. Với hơn 940.000 DN tư nhân đang hoạt động, 5 triệu hộ kinh doanh cá thể và hàng chục triệu lao động, khu vực này đã đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách và hơn 80% việc làm cho toàn xã hội.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài, kinh tế tư nhân vẫn bị đặt trong tư thế “thứ yếu”, thiếu sự bình đẳng thực sự về cơ hội tiếp cận nguồn lực, thông tin, đất đai, tín dụng… Tình trạng chưa nhất quán giữa chủ trương và chính sách khiến niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp nhiều lúc bị bào mòn.

Với tinh thần xóa bỏ định kiến, tạo điều kiện đột phá, Nghị quyết 68-NQ/TW là lời khẳng định mạnh mẽ của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu, của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển đất nước. Việc ban hành Nghị quyết được xem là một bước ngoặt trong tư duy phát triển, khi không chỉ khẳng định vị thế và vai trò then chốt của kinh tế tư nhân, mà còn cam kết cải thiện môi trường thể chế, gỡ bỏ rào cản, tạo điều kiện để khu vực này bứt phá trong giai đoạn mới.
Nghị quyết đề ra các giải pháp nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bảo vệ quyền sở hữu tài sản, khuyến khích đổi mới sáng tạo và xây dựng đội ngũ doanh nhân có bản lĩnh và trách nhiệm xã hội:
- Xây dựng hệ sinh thái DN tư nhân đổi mới sáng tạo, lấy công nghệ và tri thức làm nền tảng cho tăng trưởng dài hạn.
- Phát triển các tập đoàn tư nhân đầu đàn có đủ năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu, đóng vai trò dẫn dắt chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
- Thúc đẩy liên kết ba chiều: DN FDI - DN tư nhân trong nước - hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, nhằm gia tăng nội lực, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và khả năng lan tỏa công nghệ.
- Tạo lập môi trường pháp lý ổn định, minh bạch và tiên liệu được, với cơ chế khuyến khích DN tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực trọng yếu như hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao, và chuyển đổi xanh.
- Hình thành văn hóa kinh doanh lành mạnh, nơi doanh nhân không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn đồng hành cùng đất nước, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường và phát triển bền vững.
Việc hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW sẽ tạo nên một khu vực kinh tế tư nhân năng động, tự tin, sáng tạo và có khả năng cạnh tranh toàn cầu, góp phần quyết định vào mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
KHCN và ĐMST - Động lực chiến lược
Trong vòng một thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến quá trình CĐS diễn ra mạnh mẽ, kéo theo sự phát triển đột phá về KHCN và ĐMST và những thành tựu của cuộc Cách mạng kỹ thuật số. Những thành tựu trong công nghệ dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) không chỉ định hình lại cấu trúc KT-XH, mà còn tác động sâu sắc tới các mô hình quản trị công và hoạt động DN. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải xác lập các chiến lược hiệu quả để nắm bắt vận hội phát triển.
Nghị quyết số 57-NQ/TW nhấn mạnh quan điểm phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển KT-XH, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Đồng thời, xác định rõ mục tiêu, định hướng phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST và CĐS quốc gia một cách bài bản, hệ thống và đột phá; không chỉ đặt ra các chỉ tiêu cụ thể, mà còn chỉ rõ con đường, giải pháp để đạt được những mục tiêu đó.
Việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ mới sẽ giúp Việt Nam bắt kịp và vượt lên trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, dựa trên các trụ cột:
- Nghị quyết 57-NQ/TW coi ĐMST là trụ cột quyết định trực tiếp năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Tăng đầu tư cho R&D, đặc biệt trong các lĩnh vực mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học, vật liệu mới và năng lượng tái tạo.
- Hình thành và phát triển hệ sinh thái ĐMST quốc gia, lấy DN làm trung tâm, trường đại học và viện nghiên cứu là nguồn tri thức, kết nối chặt chẽ với thị trường và khu vực công.
- Kết nối hiệu quả ba nhà: Nhà nước - Nhà trường - DN, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu và nâng cao hàm lượng khoa học trong sản phẩm Việt Nam.
- Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình CĐS quốc gia, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số, dữ liệu lớn (Big Data), chính phủ số và kinh tế số, nhằm tạo động lực tăng trưởng mới và nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành.
- Tăng cường chính sách hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, bảo hộ sở hữu trí tuệ, và thu hút nhân tài trong và ngoài nước, nhất là đội ngũ trí thức trẻ có trình độ cao và tư duy toàn cầu.
- Việc thực hiện thành công Nghị quyết 57-NQ/TW sẽ tạo bước đột phá về năng suất, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.
Nguồn nhân lực - Nhân tố và trung tâm phát triển
Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới” là “quyết sách đột phá,” đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình tới thịnh vượng, hùng cường, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghị quyết đề ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề, thu hút và trọng dụng nhân tài sẽ tạo ra lực lượng lao động có trình độ, kỹ năng và khả năng thích ứng cao - đây chính là một trong những nhân tố then chốt để chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, bền vững.
Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực gắn với yêu cầu chuyển đổi số, Cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển xã hội số:
- Giáo dục hướng kỹ năng và đổi mới tư duy, chuyển từ dạy kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực, kỹ năng mềm và khả năng học suốt đời. Tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ thông tin, tự động hóa, ngôn ngữ, và khoa học dữ liệu.
- Đào tạo liên kết chặt chẽ giữa DN - cơ sở giáo dục - cơ quan nhà nước, nhằm bảo đảm chương trình đào tạo bám sát nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động, tránh lãng phí nguồn lực và giảm thất nghiệp sau tốt nghiệp.
- Đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo dục nghề nghiệp, đưa công nghệ thực tế vào chương trình giảng dạy, áp dụng mô hình “học đi đôi với hành”, chú trọng kỹ năng số và kỹ năng chuyển đổi.
- Thu hút, trọng dụng nhân tài trong và ngoài nước thông qua các chính sách đãi ngộ cạnh tranh, môi trường làm việc minh bạch, sáng tạo, có cơ chế sử dụng linh hoạt, đánh giá dựa trên hiệu quả và đóng góp thực chất.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về nhân lực, tăng cường năng lực dự báo nhu cầu lao động theo ngành, vùng và xu thế toàn cầu để định hướng đào tạo, phân bổ nguồn nhân lực hiệu quả.
Thực hiện thành công Nghị quyết 59-NQ/TW sẽ giúp Việt Nam từng bước hình thành một nền nhân lực số - một lực lượng lao động không chỉ giỏi chuyên môn mà còn sẵn sàng thích ứng với mọi biến động, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước nhanh và bền vững đến năm 2045.
Các giải pháp chiến lược, đột phá
Để các nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, tạo ra chuyển biến thực chất, các chính sách này cần được thể chế hóa, trước hết là về mặt luật pháp. Đặc biệt là cần một cuộc cách mạng về thực thi, đột phá về thực hiện chủ trương, triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp có tính chiến lược và đột phá:
1. Cụ thể hóa nghị quyết thành chương trình hành động với KPI rõ ràng: Mỗi nghị quyết cần được chuyển hóa thành chương trình hành động cấp quốc gia, cấp bộ, ngành và địa phương với các mục tiêu định lượng (KPI) cụ thể, có thời hạn rõ ràng, đơn vị chịu trách nhiệm và cơ chế giám sát chặt chẽ. Việc xây dựng các bộ chỉ số đo lường kết quả đầu ra, hiệu quả thực hiện và mức độ tác động xã hội là cơ sở quan trọng để tránh hình thức, bảo đảm tính thực thi cao và khả năng điều chỉnh kịp thời.
2. Gia tăng đầu tư công cho nghiên cứu và phát triển (R&D), giáo dục nghề nghiệp:
Cần dành tỷ lệ ngân sách nhà nước hợp lý và ổn định cho KHCN và giáo dục - đào tạo, trong đó ưu tiên cho các lĩnh vực chiến lược như công nghệ số, tự động hóa, năng lượng tái tạo, nông nghiệp thông minh.
Song song đó, cần có cơ chế huy động nguồn lực ngoài ngân sách, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào trung tâm R&D, liên kết với trường đại học, viện nghiên cứu, hình thành các trung tâm ĐMST vùng, khu vực.
3. Thúc đẩy hợp tác ba bên: công - tư - trí thức: Xây dựng mô hình hợp tác ba bên giữa Nhà nước - khu vực tư nhân - giới trí thức, chuyên gia, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo chính sách, DN đóng vai trò triển khai thực tiễn, và giới trí thức là lực lượng cung cấp tri thức, giải pháp, phản biện và đánh giá độc lập. Cơ chế hợp tác công - tư cần được thể chế hóa để tạo niềm tin, khuyến khích đầu tư dài hạn và cùng chia sẻ lợi ích phát triển.
4. Xây dựng Chính phủ kiến tạo, linh hoạt và dân chủ: Tiếp tục cải cách mạnh mẽ nền hành chính công, hướng đến một Chính phủ số - Chính phủ kiến tạo phát triển, trong đó nhấn mạnh vai trò “người phục vụ” thay vì “người quản lý”. Chính phủ cần có tư duy mở, linh hoạt trong chính sách, minh bạch trong điều hành và dân chủ trong đối thoại với doanh nghiệp, người dân và trí thức.
Đặc biệt, cần tăng cường thực hành dân chủ trong xây dựng chính sách công, bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
Các nhóm giải pháp này không chỉ là điều kiện cần để hiện thực hóa tinh thần các Nghị quyết như 66, 68, 57, và 59, mà còn là nền tảng quan trọng để nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, tạo đột phá trong phát triển KT-XH, đưa Việt Nam sớm trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Kết luận
“Bộ tứ trụ cột” được Tổng Bí thư Tô Lâm xác định là nền tảng chiến lược then chốt để đưa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và vươn mình mạnh mẽ trong tương lai. Việc triển khai một cách đồng bộ, hiệu quả các nghị quyết liên quan sẽ tạo nên những đột phá quan trọng về thể chế, kinh tế, khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, góp phần đưa đất nước tiến bước vững chắc trên hành trình hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đây chính là cơ sở vững chắc để hiện thực hóa khát vọng xây dựng một Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, hưng thịnh và giàu mạnh. Với truyền thống anh hùng, trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng vươn lên không ngừng của toàn dân tộc,
Tổng Bí thư Tô Lâm tin tưởng, Việt Nam sẽ tiếp tục tiến bước vững chắc trên con đường phát triển nhanh và bền vững. Mỗi cấp ủy, chính quyền, tổ chức, cá nhân cần xác định rõ trách nhiệm của mình, biến cam kết chính trị thành kết quả cụ thể, thiết thực; hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới - Khát vọng - Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu vào năm 2045.
(Bài viết đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 5 tháng 5/2025)