Một số ý kiến về dự án luật công nghiệp công nghệ số

Tạp chí online - Ngày đăng : 16:35, 05/06/2025

Ngành công nghệ số là ngành có tính chất kỹ thuật phức tạp, nền tảng có sự phát triển vô cùng nhanh chóng với thay đổi diễn ra liên tục trong kỷ nguyên số; hơn nữa, lại đây là ngành công nghiệp mới gắn với lĩnh vực công nghệ cao mà Việt Nam chưa có nhiều thành tựu. Dự thảo Luật là một dự án luật mới, lần đầu tiên được xây dựng nhằm tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển nhanh, bền vững và toàn diện của ngành công nghiệp.
Tạp chí online

Một số ý kiến về dự án luật công nghiệp công nghệ số

TS. Nguyễn Minh Phong*, TS. Nghiêm Anh Thư *Học viện Tài chính, **Đại học Ngoại thương 05/06/2025 16:35

Ngành công nghệ số là ngành có tính chất kỹ thuật phức tạp, nền tảng có sự phát triển vô cùng nhanh chóng với thay đổi diễn ra liên tục trong kỷ nguyên số; hơn nữa, lại đây là ngành công nghiệp mới gắn với lĩnh vực công nghệ cao mà Việt Nam chưa có nhiều thành tựu. Dự thảo Luật là một dự án luật mới, lần đầu tiên được xây dựng nhằm tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển nhanh, bền vững và toàn diện của ngành công nghiệp.

Tóm tắt:
- Những điểm tích cực trong Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số (CNCNS)
+ Quy định rõ phạm vi ngành CNCNS, trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
+ Kế thừa luật cũ, đồng bộ hệ thống pháp luật hiện hành.
+ Đặt 4 mục tiêu lớn: phát triển ngành trọng điểm, làm chủ công nghệ lõi, phát triển hạ tầng, thu hút nhân lực chất lượng cao.
+ Có cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) với sản phẩm công nghệ mới.
+ Chính sách ưu đãi toàn diện: tài chính, thuế, đất đai, lao động, thị trường. Đặc biệt ưu tiên ngành bán dẫn - lĩnh vực chiến lược.
+ Lần đầu đưa AI và tài sản số vào điều chỉnh của pháp luật.
+ Hỗ trợ nhân tài, khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng công nghệ số.
- Một số điểm cần lưu ý
+ Ngành công nghệ số phát triển nhanh, cần luật linh hoạt, cập nhật. Nên bổ sung nội dung về quản lý nhà nước trong Điều 1.
+ Cần cụ thể hóa ưu đãi FDI, khuyến khích sử dụng nhân lực Việt Nam.
+ Làm rõ mô hình khu công nghệ số tập trung, phân biệt với khu công nghệ cao/CNTT.
+ Một số ưu đãi thuế nên đưa vào Luật Thuế TNDN (sửa đổi) để đảm bảo đồng bộ.
+ Bổ sung cơ chế ứng dụng AI an toàn, nhân văn, chống vi phạm bản quyền. Cho phép dán nhãn sản phẩm AI bằng định dạng máy đọc (SynthID, C2PA).
+ Xác định trách nhiệm rõ ràng của từng chủ thể trong hệ thống AI.
+ Làm rõ yêu cầu về chất lượng dữ liệu đầu vào, tránh gây khó cho doanh nghiệp (DN).
+ Cụ thể hóa hơn về cơ chế sandbox: nguyên tắc, tiêu chí, quyền lợi, nghĩa vụ.
+ Bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm như phát tán mã độc, thao túng dữ liệu.
+ Đề xuất quy định kiểm soát chuyển giao công nghệ số ra nước ngoài.

Những điểm nhấn tích cực trong dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số

Dự thảo Luật CNCNS (dự thảo Luật) gồm 8 chương, 73 Điều quy định về CNCNS, bao gồm: Hoạt động CNCNS; phát triển CNCNS; quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến công nghiệp công nghệ số, nhưng không quy định về hoạt động sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số phục vụ cho quốc phòng, an ninh, hoạt động cơ yếu để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước.

Luật CNCNS được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quy định còn phù hợp của Luật Công nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn thi hành về công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT), thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành về đầu tư, tài chính, khoa học công nghệ và đồng bộ với các dự án luật có liên quan, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi cho thực thi, áp dụng, hướng tới 4 mục tiêu lớn:

- Phát triển CNCNS thành một trong những ngành kinh tế trọng điểm, đóng góp lớn vào GDP;

- Hình thành hệ sinh thái DN công nghệ số nội địa, chuyển dịch từ gia công sang làm chủ công nghệ lõi, tích hợp, sản xuất và sáng tạo;

- Đầu tư phát triển hạ tầng CNCNS hiện đại, đồng bộ, thúc đẩy các tiến trình chuyển đổi số (CĐS) trong toàn xã hội;

- Thu hút và phát triển đội ngũ nhân lực công nghệ số chất lượng cao, kết nối nhân tài trong và ngoài nước.

cncns-2.png

Nhìn chung, dư luận tán thành sự cần thiết xây dựng và ban hành Luật CNCNS và khái niệm tài sản số; tiêu chuẩn, kỹ thuật trong công nghiệp số; đồng tình với nhiều nội dung cơ bản của dự thảo Luật, như quy định sản xuất sản phẩm công nghệ số, cung cấp dịch vụ công nghệ số là ngành, nghề ưu đãi đầu tư theo quy định pháp luật về đầu tư và pháp luật khác có liên quan.

Đặc biệt, trong trường hợp pháp luật chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành, cơ quan có thẩm quyền cho phép thử nghiệm có kiểm soát về không gian, thời gian, quy mô, đối tượng thử nghiệm, quyền, trách nhiệm của các đối tượng có liên quan sản phẩm, dịch vụ hội tụ công nghệ số. Đồng thời, miễn trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền cho phép thử nghiệm và tổ chức, doanh nghiệp tham gia thử nghiệm.

Dự thảo Luật đã thiết kế nhiều chính sách ưu đãi mang tính hệ thống, bao trùm toàn bộ chuỗi phát triển ngành gồm hỗ trợ tài chính, hạ tầng, thuế doanh nghiệp và thuế xuất nhập khẩu, đất đai và thủ tục hải quan; khuyến khích đầu tư đào tạo, miễn giấy phép lao động, cấp visa 5 năm, học bổng và ưu đãi thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia; hỗ trợ đầu tư nghiên cứu, chi phí đầu tư vào cơ sở nghiên cứu được tính vào chi phí trừ thuế.

Nhà nước đầu tư các hạ tầng thiết yếu, khuyến khích tư nhân xây dựng hạ tầng công nghệ số và phát triển các khu công nghệ tập trung. Hỗ trợ mở rộng thị trường sản phẩm công nghệ số, đặc biệt ưu đãi trong thuê/mua sắm sản phẩm bằng vốn ngân sách nhà nước.

Trong đó, ngành công nghiệp bán dẫn được xác định là lĩnh vực chiến lược sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi riêng biệt, tạo lợi thế cạnh tranh và nắm bắt thời cơ dịch chuyển chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là bước đi thể hiện rõ sự chủ động của Việt Nam trong việc đón đầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Dư luận cũng đồng tình nội dung trong dự thảo Luật về giao cho Chính phủ ban hành các quy định tạo mọi điều kiện thuận lợi về đời sống, điều kiện làm việc để thu hút nhân tài, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành CNCNS.

Một điểm mới nổi bật trong dự thảo luật là việc chính thức đưa trí tuệ nhân tạo (AI) vào nội dung điều chỉnh của pháp luật. AI được xác định là công cụ đột phá nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, đây vẫn là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và còn chưa có nhiều mô hình pháp lý hoàn chỉnh trên thế giới. Vì vậy, Dự thảo đã lựa chọn hướng tiếp cận nguyên tắc, “mềm dẻo” quy định khung trong luật, đồng thời Chính phủ sẽ ban hành các quy định chi tiết phù hợp thực tiễn.

Dự thảo cũng lần đầu tiên đưa ra các nguyên tắc quản lý tài sản số, lĩnh vực còn rất mới và phức tạp. Các quy định bước đầu xoay quanh định nghĩa, phân loại và nội dung quản lý tài sản số theo hướng linh hoạt. Chính phủ sẽ quy định cụ thể theo từng lĩnh vực chuyên ngành. Đây là tiền đề quan trọng để quản lý hiệu quả, đồng thời phát triển thị trường tài sản số trong nước.

Dự án Luật xác lập rõ cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ số, bao gồm các quy định về nguyên tắc triển khai, tiêu chí lựa chọn, thẩm quyền, trách nhiệm pháp lý, quyền lợi của người dùng và miễn trừ trách nhiệm đối với các rủi ro khách quan trong thử nghiệm.

cncns-1.jpg
Ảnh: Internet

Một số điểm cần lưu ý trong dự thảo Luật CNCNS

Ngành công nghệ số là ngành có tính chất kỹ thuật phức tạp, nền tảng có sự phát triển vô cùng nhanh chóng với thay đổi diễn ra liên tục trong kỷ nguyên số; hơn nữa, lại đây là ngành công nghiệp mới gắn với lĩnh vực công nghệ cao mà Việt Nam chưa có nhiều thành tựu.

Dự thảo Luật là một dự án luật mới, lần đầu tiên được xây dựng nhằm tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển nhanh, bền vững và toàn diện của ngành công nghiệp.

Do vậy, các quy định tại Dự thảo cần xây dựng linh hoạt, phù hợp với đặc thù và bản chất của các mô hình kinh doanh trong ngành để đảm bảo tính khả thi và không cản trở sự phát triển của DN.

Trước hết, Điều 1 của dự thảo Luật về phạm vi điều chỉnh cần bổ sung nội dung về quản lý nhà nước về công nghiệp công nghệ số cho phù hợp; Đặc biệt, cần bổ sung và cụ thể hóa quy định chính sách về chính sách tài chính - tín dụng khuyến khích đầu tư nước trực tiếp nước ngoài (FDI) và các ưu đãi khác trong hợp tác quốc tế để tăng động lực và đẩy nhanh tốc độ phát triển của ngành CNCNS.

Đồng thời, các chính sách ưu đãi này nên trực tiếp hoặc gián tiếp định hướng khuyến khích các DN có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng nhân sự, kỹ sư, nhà khoa học Việt Nam và tăng cường chuyển giao công nghệ và phát triển các sản phẩm lưỡng dụng trong CNCNS cho Việt Nam.

Dự thảo Luật cần định dạng minh bạch và cụ thể hơn về khu công nghệ số tập trung, cả về sự cần thiết của loại hình khu vực này, cũng như mối liên hệ giữa nó với khu công nghệ cao (theo Luật Công nghệ cao) và khu CNTT tập trung (theo Luật CNTT). Theo đó, cần làm rõ hơn về bản chất, khu công nghệ số tập trung sẽ là nơi diễn ra các hoạt động nghiên cứu, phát triển, sản xuất sản phẩm, dịch vụ công nghệ số theo mô hình công nghiệp hiện đại, khác biệt rõ ràng với khu công nghệ cao vốn hướng đến hoạt động ươm tạo, nghiên cứu, đào tạo và sản xuất sản phẩm công nghệ cao, do đó là sự kế thừa khu công nghệ thông tin tập trung và đảm bảo sự ổn định và thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời không ảnh hưởng đến hoạt động của các khu CNTT tập trung hiện nay.

Hơn nữa, để đảm bảo nguyên tắc “một vấn đề chỉ quy định trong một luật”, nên các chính sách ưu đãi về tỷ lệ khấu hao và khấu trừ các chi phí đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ số, cũng như giảm 50% thuế thu nhập DN đối với các DN thiết kế bán dẫn và DN điện tử nước ngoài thực hiện chuyển giao công nghệ cho DN trong nước cần được chuyển đưa vào Luật Thuế thu nhập DN (sửa đổi) để tạo sự đồng bộ và khả thi trong áp dụng.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các quy định liên quan cần thiết để khuyến khích ứng dụng AI vào đời sống - xã hội trên cơ sở đảm bảo an toàn, lấy con người làm trung tâm, đồng thời, chống lại nguy cơ lạm dụng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và các tội phạm khác gắn với sản phẩm do AI tạo ra.

Đồng thời, Điều 45 Dự thảo cần cho phép dán nhãn sản phẩm do AI tạo ra hoặc can thiệp bằng định dạng máy có thể đọc được, mà không cần hiển thị trực tiếp cho con người, như SynthID hoặc C2PA để tránh nguy cơ lỗi thời trước khi kịp ban hành trong bối cảnh bùng nổ công nghệ số ngày càng tiên tiến.

Hơn nữa, cần thu hẹp và cụ thể hóa trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào khâu cụ thể trong chuỗi phát triển hệ thống trí tuệ nhân tạo được quy định trong Khoản 1 Điều 46. Trên thực tế, một hệ thống trí tuệ nhân tạo gồm nhiều thành phần khác nhau gồm: mô hình trí tuệ nhân tạo, dữ liệu đầu vào, phần cứng (trung tâm dữ liệu, robot), giao diện tương tác với người dùng... Việc phát triển một hệ thống trí tuệ nhân tạo có thể đòi hỏi sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, và họ không có khả năng kiểm soát các rủi ro trong các khâu mà họ không tham gia.

Tương tự, Khoản 2 Điều 16. Dự thảo quy định DN có trách nhiệm đánh giá, công bố sự phù hợp tiêu chuẩn, chất lượng dữ liệu số đầu vào trong sản phẩm, dịch vụ công nghệ số cũng cần xác định rõ ràng và cụ thể nội hàm trách nhiệm này, vì thực tế khó xây dựng tiêu chuẩn chung đối với chất lượng dữ liệu và áp dụng cho tất cả các công ty. Nói cách khác, chất lượng dữ liệu do DN tự quyết định phù hợp với nhu cầu của mình, chứ không nên bắt buộc phải theo tiêu chuẩn chung. Hơn nữa, một số nhà cung cấp dịch vụ không thể truy cập dữ liệu khách hàng vì lý do bảo mật, nên không thể kiểm tra hay đánh giá dữ liệu theo yêu cầu của Dự thảo.

cncns-3.jpg

Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng cần cụ thể hóa các quy định chi tiết về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, nhất là về nguyên tắc, tiêu chí, quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia thử nghiệm, nhằm vừa nâng cao khả năng bảo vệ người sử dụng và khuyến khích sáng tạo có trách nhiệm, ngăn ngừa các hành vi lạm dụng, trục lợi, vừa không trùng Luật Khoa học, công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST).

Đặc biệt, để ngăn ngừa các hành vi phá hoại sự phát triển CNCNS, dự thảo Luật nên bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm, như: Đánh cắp, tiết lộ trái phép thông tin bí mật, phát tán virus, phần mềm độc hại; Cản trở hoạt động hợp pháp hoặc hỗ trợ hoạt động bất hợp pháp CNCNS của tổ chức, cá nhân; bổ sung các quy định mới nhằm bảo vệ các DN trong nước trước sự cạnh tranh với DN nước ngoài; ngăn chặn tình trạng độc quyền nền tảng số, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống thao túng dữ liệu và thuật toán nhằm kiểm soát quyền lực của các tập đoàn công nghệ.

Đồng thời, nên xem xét bổ sung Điều 14 quy định: Tổ chức, cá nhân Việt Nam phải được chấp thuận bởi Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ khi thực hiện bán, xuất khẩu, chuyển giao sản phẩm, dịch vụ công nghệ số bị hạn chế chuyển giao hoặc quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ này cho đối tác nước ngoài.

Với những điểm chỉnh sửa cần lưu ý trên, việc hoàn thiện và thông qua Luật CNCNS đánh dấu bước tiến quan trọng nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho một ngành công nghiệp mới nổi, góp phần thể chế hóa kịp thời các chủ trương lớn của Đảng về ĐMST, kỳ vọng trở thành cú hích mạnh mẽ thúc đẩy hình thành một ngành công nghiệp mới, vừa có giá trị kinh tế cao, vừa là động lực nội sinh cho chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy phát triển DN công nghệ số, đồng thời tạo nền tảng cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào xu thế công nghệ toàn cầu trong chiến lược CĐS quốc gia, hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển dựa trên khoa học - công nghệ và ĐMST…

(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 5 tháng 5/2025)

TS. Nguyễn Minh Phong*, TS. Nghiêm Anh Thư *Học viện Tài chính, **Đại học Ngoại thương