5 luật nền tảng tháo gỡ nhiều điểm nghẽn trong lĩnh vực KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Diễn đàn - Ngày đăng : 16:53, 27/06/2025
5 luật nền tảng tháo gỡ nhiều điểm nghẽn trong lĩnh vực KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV vừa bế mạc sáng ngày 27/6/2025, 5 dự án luật quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ KH&CN đã được thông qua. Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Hoàng Phương, nhiều tư tưởng chỉ đạo mới của lãnh đạo Đảng, Nhà nước được thể hiện trong 5 dự luật này.
Ngày 27/6/2025, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức họp báo thường kỳ tháng 6 dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương.
Tham dự buổi họp báo có đại diện Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ cùng đại diện gần 40 cơ quan thông tấn, báo chí.

5 luật nền tảng trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Trong tháng 6 năm 2025, Bộ KH&CN đã triển khai nhiều nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế. Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ, báo cáo, giải trình và trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV 5 dự án luật quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, gồm: Luật Khoa học, Công nghệ (sửa đổi) và Đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (TC&QCKT); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (SPHH); Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) (sửa đổi) và Luật Công nghiệp công nghệ số (CNCNS).
Phát biểu tại họp báo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Hoàng Phương, người phát ngôn của Bộ KH&CN cho biết, trong gần 4 tháng kể từ khi 2 Bộ TT&TT và Bộ KH&CN (cũ) hợp nhất, Bộ KH&CN cũng đã dự thảo và thừa ủy quyền của Chính phủ, trình Quốc hội thông qua 5 luật hết sức quan trọng. Những luật này là nền tảng, quan trọng cho lĩnh vực KHCN, ĐMST và CĐS.
Theo Thứ trưởng, những luật này đều là những luật đã được xây dựng từ cách đây 1 - 2 năm. Tuy nhiên đến tháng 12/2024, với sự ra đời của Nghị quyết 57 rất nhiều nội dung, rất nhiều định hướng, chủ trương mới của Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã được lồng ghép vào các luật này.

Về cơ bản, theo Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương, các dự thảo luật được trình lên Quốc hội và được Quốc hội thông qua gần như thay đổi hoàn toàn so với trước đây. Trong quá trình soạn thảo, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp tham gia chỉ đạo tất cả các nội dung trong 5 đạo luật với rất nhiều tư tưởng mới đã được đưa vào.
Theo tinh thần Bộ Chính trị chỉ đạo, những nội dung mới của 5 luật đã giải quyết được hết những điểm nghẽn, khó khăn vướng mắc trong lĩnh vực KHCN và ĐMST, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển.
Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương cũng thông tin, từ nay đến cuối tháng 10, Bộ KH&CN cũng tiếp tục xây dựng 4 luật gồm: Luật CĐS, Luật Công nghệ cao, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật chuyển giao công nghệ để trình Quốc hội.
“Đây là văn bản pháp lý hết sức quan trọng và khi được thông qua thì hành lang pháp lý cho lĩnh vực KHCN, ĐMST và CĐS cơ bản là hoàn thiện”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thứ trưởng cũng khẳng định vai trò của công tác thông tin, truyền thông là hết sức quan trọng, để các cơ quan báo chí có thể tuyên truyền, phổ biến các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực KHCN.
Vừa qua, Bộ KHCN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án đẩy mạnh truyền thông thực hiện Nghị quyết 57 về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS đến năm 2030.
“Đây là lần đầu tiên trong lĩnh vực KHCN có một chương trình truyền thông cấp quốc gia. Đây là một trong những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước về việc tăng cường công tác đẩy mạnh công tác truyền thông chính sách trong bối cảnh hiện nay”, Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương nhấn mạnh.
Mười điểm mới của Luật Khoa học, Công nghệ (sửa đổi) và Đổi mới sáng tạo
Tại họp báo, giới thiệu Luật KH,CN&ĐMST vừa được thông qua sáng ngày 27/5, ông Nguyễn Phú Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ cho biết, Luật lần này có 10 điểm đổi mới mạnh mẽ, thể hiện sự chuyển mình căn bản trong tư duy và định hướng phát triển.

Thứ nhất, khẳng định rõ ràng vai trò nền tảng của KHCN. KHCN được xem là yếu tố then chốt, là động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Thứ hai, ĐMST lần đầu tiên được đưa vào Luật và được đặt ngang hàng với KHCN. Đây là một sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển. Trong khi KHCN là hoạt động chuyên môn của các nhà khoa học, tập trung vào nghiên cứu, phát triển tri thức và công nghệ mới, thì ĐMST là quá trình của toàn dân.
Thứ ba, chuyển mạnh mẽ tư duy quản lý từ kiểm soát quy trình và đầu vào sang quản lý kết quả và hiệu quả đầu ra, chấp nhận rủi ro.
Thứ tư, Luật xác lập định hướng rõ ràng về việc chuyển từ một quốc gia chủ yếu sử dụng công nghệ sang làm chủ các công nghệ chiến lược.
Thứ năm, KHCN&ĐMST sẽ lấy thị trường, định hướng sản phẩm làm động lực, làm định hướng cho phát triển công nghệ và xác định các bài toán nghiên cứu liên quan.
Thứ sáu, Đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học thành các trung tâm nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ĐMST, từng bước hình thành các trung tâm nghiên cứu trình độ cao gắn với đào tạo nhân lực chất lượng cao, bảo đảm phối hợp hiệu quả với mạng lưới viện nghiên cứu chuyên ngành.
Thứ bảy, chuyển trọng tâm phát triển công nghệ về doanh nghiệp (DN). Lần đầu tiên, Luật dành một chương riêng (Chương IV) để quy định các chính sách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển và ĐMST trong DN.
Thứ tám, Luật hướng tới cân bằng nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, khuyến khích kết hợp liên ngành.
Thứ chín, chúng ta định hướng phát triển KHCN trong một hệ sinh thái hoàn chỉnh và cân bằng. Hệ sinh thái này bao gồm thể chế, hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực và các chủ thể như DN, viện nghiên cứu, trường đại học, nhà khoa học, định chế tài chính, tổ chức trung gian, trung tâm ĐMST và quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thứ mười, thực hiện CĐS toàn diện trong hoạt động KHCN và quản lý KHCN.
Luật Công nghiệp công nghệ số: Động lực cho sự bứt phá của Việt Nam trong kỷ nguyên số
Giới thiệu Luật CNCNS, ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Cục Công nghiệp CNTT cho biết, Luật được Quốc hội khóa XV thông qua vào ngày 14/6/2025 để hiện thực hóa và là bước đột phá chiến lược cho ngành CNCNS.

Luật CNCNS không chỉ là một đạo luật chuyên ngành, mà còn được kỳ vọng là đòn bẩy thể chế cho quá trình CĐS quốc gia. Đây là thời điểm vàng để Việt Nam xây dựng được nền tảng pháp lý, xây dựng cơ chế là lợi thế cạnh tranh, mở đường cho DN công nghệ số trong nước phát triển vững chắc, hội nhập sâu rộng và góp phần tạo dựng vị thế trung tâm mới của Việt Nam trong kỷ nguyên số trên toàn cầu. Đặc biệt, Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành một đạo luật riêng biệt về CNCNS.
Theo đó, Luật được ban hành với các mục tiêu: Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư phát triển ngành CNCNS, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của đất nước; Nâng cao giá trị Việt Nam trong ngành CNCNS; Hình thành lực lượng DN công nghệ số Việt Nam lớn ngang tầm các nước tiên tiến và đủ số lượng để thực hiện chiến lược phát triển quốc gia số; Xây dựng hành lang pháp lý đầu tiên về trí tuệ nhân tạo (AI); Tạo địa vị pháp lý cho tài sản số nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số; Phát triển ngành bán dẫn Việt Nam và nâng cao vị thế trong chuỗi bán dẫn toàn cầu; Phát triển hạ tầng CNCNS hiện đại đồng bộ; Xây dựng hệ sinh thái CNCNS và thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo.
Để khuyến khích đổi mới và phát triển khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực CNCNS, Luật CNCNS triển khai các chính sách hỗ trợ thiết thực.
Theo đó, DN nhỏ và vừa được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực, và ưu tiên trong đấu thầu các dự án công. Nhà nước hỗ trợ kinh phí đổi mới công nghệ, giúp DN khởi nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn lực để hiện thực hóa ý tưởng.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cho phép DN thử nghiệm sản phẩm và dịch vụ mới, khác luật hiện hành trong không gian, thời gian giới hạn để tạo môi trường thuận lợi cho sáng tạo. Những giải pháp này thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ số phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào sự đổi mới của nền kinh tế.
Những điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
Ngày 14/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TC&QCKT.
Với tinh thần đổi mới mạnh mẽ, ông Hà Minh Hiệp, Chủ tịch Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (TĐC) cho biết, Luật đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết quốc tế trong Hiệp định TBT/WTO và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đồng thời kế thừa những thành quả của Luật TC&QCKT năm 2006, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển hiện nay.

Cụ thể, lần đầu tiên luật hóa Chiến lược tiêu chuẩn quốc gia như một công cụ hoạch định dài hạn, định hướng xây dựng hệ thống tiêu chuẩn hiện đại, hài hòa quốc tế, thúc đẩy phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI), đồng thời xác lập địa vị pháp lý của Cơ quan Tiêu chuẩn quốc gia nhằm nâng cao năng lực điều phối và hội nhập quốc tế (Điều 8a).
Thiết lập cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng để phục vụ quản lý số, tăng hiệu quả hậu kiểm, giảm chi phí tuân thủ và thủ tục hành chính cho DN (Điều 8c, 45, 48).
Cải cách quy trình xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo hướng rút ngắn thời gian, tăng tính minh bạch, thúc đẩy sự tham gia của DN, hiệp hội; khuyến khích nhanh chóng áp dụng tiêu chuẩn quốc tế đối với công nghệ cao, công nghệ mới (Điều 10a, 17, 32, 44).
Quy định nguyên tắc “một sản phẩm - một quy chuẩn” trên toàn quốc để chấm dứt tình trạng chồng chéo, phân tán trong quản lý; đồng thời mở rộng quyền xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn cho DN, hiệp hội nhằm thúc đẩy xã hội hóa hoạt động tiêu chuẩn hóa (Điều 11a, 26a, 44).
Thứ năm, đơn giản hóa công bố hợp quy, chuyển sang hình thức báo trực tuyến qua Cơ sở dữ liệu quốc gia; miễn công bố hợp quy với sản phẩm đã được kiểm soát chất lượng đầy đủ theo luật chuyên ngành - giúp DN tiết kiệm thời gian, chi phí (Điều 45, 46, 48).
Thứ sáu, bổ sung cơ chế thừa nhận đơn phương kết quả đánh giá sự phù hợp quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong lĩnh vực công nghệ cao khi trong nước chưa đủ năng lực thử nghiệm - như 5G, IoT, chip bán dẫn… (Điều 57).
Các nội dung mới quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Thông tin về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng SPHH được thông qua tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV ngày 18/6/2025, ông Hà Minh Hiệp cho biết Luật thể chế hóa kịp thời các chủ trương lớn tại các Nghị quyết 57-NQ/TW, 59-NQ/TW, 66-NQ/TW và 68-NQ/TW, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập và CĐS. Luật có nhiều điểm đổi mới nổi bật, được thể hiện qua 5 nhóm nội dung sau:
Thứ nhất, tác động tổng thể: chuyển đổi phương thức quản lý chất lượng SPHH.
Luật thể hiện bước chuyển căn bản, thứ nhất là từ quản lý hành chính sang quản lý rủi ro;
Cụ thể, quản lý theo rủi ro, tăng hậu kiểm, giảm tiền kiểm. Luật chuyển đổi từ cách phân nhóm hành chính sang phương pháp phân loại sản phẩm theo rủi ro thấp - trung bình - cao (Điều 5), dựa trên tiêu chí ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường, khả năng kiểm soát chuỗi cung ứng và cảnh báo quốc tế.
Rủi ro thấp: tự công bố tiêu chuẩn áp dụng;
Rủi ro trung bình: công bố tiêu chuẩn + tự đánh giá hoặc tổ chức chứng nhận được công nhận;
Rủi ro cao: công bố tiêu chuẩn + chứng nhận bởi tổ chức được chỉ định.
Luật nhấn mạnh hậu kiểm bằng công nghệ, dữ liệu và truy xuất nguồn gốc (Điều 45), thay thế cơ bản cho tiền kiểm trước đây.
Thứ hai, từ tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ.
Thiết lập hạ tầng quản lý chất lượng hiện đại, số hóa và kết nối
Lần đầu tiên, Luật quy định đầy đủ về hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) với 5 thành tố cốt lõi: tiêu chuẩn - đo lường - đánh giá sự phù hợp - công nhận - kiểm tra (Điều 6b).
Xây dựng nền tảng số quốc gia phục vụ quản lý sản phẩm hàng hoá rủi ro trung bình, cao, tăng khả năng cảnh báo và chia sẻ dữ liệu (khoản 4 Điều 6b);
Ứng dụng AI, dữ liệu lớn trong toàn bộ vòng đời sản phẩm: truy xuất, hộ chiếu số, nhãn điện tử, hệ thống phản hồi, giám sát (Điều 6đ);
Kết nối giữa cơ quan kiểm tra, hải quan, DN, người tiêu dùng và hệ thống quốc tế.
Thứ ba, từ khuyến khích sang ràng buộc trách nhiệm, minh bạch và chế tài nghiêm khắc.
Thứ tư, tăng quyền người tiêu dùng và giám sát xã hội
Người tiêu dùng được bổ sung các quyền mới (Điều 17): Truy xuất, tra cứu thông tin, cảnh báo rủi ro; Phản ánh trực tuyến, được bồi thường thiệt hại.
Luật tăng cường vai trò của: Tổ chức xã hội nghề nghiệp (Điều 21): giám sát chính sách, hỗ trợ thành viên; Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng (Điều 22): khảo sát, thử nghiệm, phối hợp kiểm tra và cảnh báo.
Thứ năm, kiểm soát chặt chẽ hơn và hỗ trợ DN tốt hơn.
Bổ sung quy định quản lý chất lượng hàng hóa trên nền tảng số: trách nhiệm người bán và chủ sàn trong công khai, tiếp nhận khiếu nại, xử lý vi phạm (Điều 34b);
Mở rộng danh mục hành vi vi phạm nghiêm cấm như quảng cáo sai, kinh doanh sản phẩm không rõ nguồn gốc hoặc không phù hợp tiêu chuẩn/quy chuẩn (Điều 8);
DN nhỏ và vừa được hỗ trợ về áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, thử nghiệm, đào tạo, tài trợ và nâng cao năng lực cạnh tranh (Điều 6c).
Đây là nền tảng pháp lý thúc đẩy môi trường kinh doanh công bằng, bảo vệ người tiêu dùng, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia và hỗ trợ hội nhập quốc tế sâu rộng.
Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi)
Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua bao gồm 8 Chương với 73 điều (giảm 20 điều so với Luật năm 2008).

Giới thiệu Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) (sửa đổi), ông Nguyễn Tuấn Khải, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân cho biết mặc dù có tính kế thừa các quy định của của Luật 2008 vẫn còn phù hợp với thực tiễn QLNN trong lĩnh vực NLNT, nhưng Luật vừa được thông qua có 7 điểm căn cốt:
Thứ nhất, Luật đáp ứng khung pháp lý cho quản lý nhà nước (QLNN) trong lĩnh vực NLNT bao gồm phát triển ứng dụng, bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân, phù hợp với hướng dẫn và luật mẫu của Cơ quan NLNT quốc tế (IAEA).
Thứ hai, điện hạt nhân trở thành chiến lược quốc gia, đáp ứng tiêu chí năng lượng sạch, góp phần vào mục tiêu giảm phát phát thải carbon, bảo đảm nhu cầu và an ninh năng lượng quốc gia, kiến tạo không gian phát triển mới.
Thứ ba, theo Hướng dẫn của IAEA và kinh nghiệm quốc tế, hoạt động bảo đảm an toàn, an ninh trong phát triển ứng dụng NLNT nói chung và an toàn hạt nhân nói riêng phải do một cơ quan nhà nước có thẩm quyền thống nhất quản lý, tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn của IAEA, Quản lý toàn bộ vòng đời, qua tất cả các giai đoạn của nhà máy điện hạt nhân, từ phê duyệt dự án, lựa chọn địa điểm, xây dựng, vận hành thử, vận hành cho đến giai đoạn đóng cửa. Đây là cách tiếp cận toàn diện, theo kinh nghiệm quốc tế.
Thứ tư, để phục vụ cho việc triển khai nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam được thuận lợi, Luật có quy định cho phép áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn của nước cung cấp công nghệ, dự án có khoản chi cho thẩm định an toàn, thẩm định công nghệ và đào tạo.
Thứ năm, đảm bảo an toàn, an ninh cho các cơ sở hạt nhân, trong đó có nhà máy điện hạt nhân, trong dự thảo Luật đã thiết kể hẳn một chương riêng về an toàn, an ninh cơ sở hạt nhân, một mục riêng về nhà máy điện hạt nhân, trong đó duy trì hoạt động giám sát thường xuyên của cơ quan quản lý an toàn bức xạ và hạt nhân trong suốt vòng đời của nhà máy.
Thứ sáu, các chính sách phát triển mạnh mẽ các ứng dụng NLNT cho mục đích dân sinh trong các lĩnh vực.
Thứ bảy, tiến tới làm chủ công nghệ năng lượng hạt nhân để phục vụ phát triển KT-XH.
Thứ tám, CĐS toàn diện công tác quản lý ứng dụng NLNT, năng lượng hạt nhân./.