Những dấu ấn quan trọng của lĩnh vực KHCN, TT&TT nhiệm kỳ 2020 - 2025
Diễn đàn - Ngày đăng : 20:30, 16/08/2025
Những dấu ấn quan trọng của lĩnh vực KHCN, TT&TT nhiệm kỳ 2020 - 2025
Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng uỷ Bộ KH&CN và Bộ TT&TT (trước hợp nhất) đã chỉ đạo các đơn vị thuộc hai Bộ hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng đạt được nhiều dấu ấn bứt phá.
Ngày 16/8/2025 tại Hà Nội, Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 chính thức khai mạc.
.jpg)
Thay mặt Đoàn Chủ tịch, Phó Bí thư Thường trực, Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Đức Long đã báo cáo các kết quả đạt được của Đảng bộ Bộ KH&CN giai đoạn 2020 - 2025.
Báo cáo nhấn mạnh trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động và ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, Đảng ủy hai Bộ (trước khi hợp nhất) đã ban hành và quyết liệt triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Bộ nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Trong nhiệm kỳ đã ban hành 45 nghị quyết, kết luận tập trung vào chiến lược, thể chế, hợp tác quốc tế, tài chính - đầu tư công, thanh tra và phòng chống tiêu cực.
Các chương trình, nhiệm vụ KH&CN ưu tiên được triển khai đồng bộ
Về lĩnh vực KH&CN, Thứ trưởng Phạm Đức Long cho biết các chương trình, nhiệm vụ KH&CN ưu tiên được triển khai đồng bộ, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Hệ thống đổi mới sáng tạo (ĐMST) quốc gia đã hình thành với doanh nghiệp (DN) làm trung tâm, phát triển mạnh DN KH&CN, công nghệ cao; đồng thời mở rộng thị trường và hợp tác quốc tế.
Trên bản đồ ĐMST toàn cầu, Việt Nam tăng hạng ấn tượng với 5/7 trụ cột tăng hạng, trong đó cơ sở hạ tầng tăng 14 bậc, trình độ phát triển thị trường tăng 6 bậc.
Năm 2024, Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu về tăng năng suất lao động, số ứng dụng di động và tỷ lệ chi nghiên cứu phát triển của DN.
Năm 2024, chỉ số ĐMST của Việt Nam xếp hạng 44/133 nền kinh tế, tăng 4 bậc so với 2022. Số công bố quốc tế tăng 22,4% so với 2020. Năm 2023, 38% DN có hoạt động ĐMST, tăng 9,5% so với 2021. Hệ sinh thái khởi nghiệp đứng thứ 55 thế giới, tổng vốn gọi của DN khởi nghiệp đạt 3,45 tỷ USD trong 5 năm.

Khoa học xã hội và nhân văn tiếp tục bám sát thực tiễn, làm sáng tỏ các vấn đề cốt lõi, cung cấp cơ sở khoa học quan trọng cho hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chỉ số Phát triển con người của Việt Nam tăng từ 0,703 năm 2021 lên 0,766 năm 2023, đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia có mức phát triển con người cao.
Khoa học tự nhiên ghi dấu bước tiến vượt bậc trong nghiên cứu cơ bản, mở ra các lĩnh vực đa ngành mới như vũ trụ, y sinh, nano, hạt nhân; đồng thời giữ vững thế mạnh về toán học, vật lý, hóa học. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng vào quản lý tài nguyên, môi trường, phòng chống thiên tai, nghiên cứu địa chất, khoáng sản, biển và hải đảo.
Khoa học kỹ thuật và công nghệ ứng dụng đã làm chủ nhiều công nghệ then chốt, đưa vào sản xuất, giúp nâng cao năng lực DN, tăng tỷ lệ nội địa hóa và giảm giá thành sản phẩm.
Trong nông nghiệp, nhiều giống cây trồng mới, năng suất cao, kháng bệnh tốt đã ra đời, mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội. Lĩnh vực y - dược khẳng định năng lực làm chủ công nghệ sản xuất vắc xin, ghép hầu hết các tạng phức tạp.
Trong quốc phòng - an ninh, KHCN góp phần hiện đại hóa trang thiết bị, phát triển hệ thống kỹ thuật nghiệp vụ, đặc biệt trong phòng chống tội phạm công nghệ cao.
Giai đoạn 2021 - 2025, lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) có bước tiến mạnh mẽ. Toàn ngành xử lý trên 928.000 đơn, gần gấp đôi giai đoạn 2016 - 2020.
Năm 2024, các chỉ số then chốt đều tăng trưởng ấn tượng: sáng chế có 1.226 đơn đăng ký (tăng 20,2%), 308 bằng được cấp (tăng 121,6% so với năm 2020); cấp 1.189 bằng kiểu dáng công nghiệp (tăng 7,1% so với năm 2023).
Trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, giai đoạn vừa qua đạt nhiều kết quả nổi bật. Hơn 14.000 tiêu chuẩn quốc gia và trên 800 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia được ban hành, tỷ lệ hài hòa quốc tế vượt 63%. Năm 2023, Chỉ số hạ tầng chất lượng quốc gia (GQII) của Việt Nam xếp hạng 52 thế giới, tăng 2 bậc so với năm 2020.
“Những con số này là minh chứng rõ nét cho quyết tâm hội nhập sâu rộng, phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và khẳng định vị thế quốc gia trên bản đồ tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng quốc tế”, Thứ trưởng Phạm Đức Long nhấn mạnh.
Trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (NLNT), an toàn bức xạ và hạt nhân, Quốc hội đã thông qua Luật NLNT (sửa đổi), tạo hành lang pháp lý để triển khai nhanh nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, lò hạt nhân module quy mô nhỏ, nhằm đảm bảo điện linh hoạt cho chuyển đổi số (CĐS) và chuyển đổi xanh (CĐX).
Việc mở rộng ứng dụng NLNT trong các ngành, lĩnh vực đã đạt nhiều kết quả nổi bật như: Y tế (chẩn đoán, xạ trị, điều trị ung thư), nông nghiệp (giống đột biến năng suất cao, kháng bệnh), công nghiệp - môi trường (kiểm soát chất lượng, đánh giá an toàn đập, tìm nguồn nước). Hiện cả nước có khoảng 7.000 cơ sở tiến hành công việc bức xạ; lò phản ứng Đà Lạt vận hành an toàn, sản xuất đồng vị phóng xạ quan trọng cho y tế và công nghiệp.
Khẳng định vai trò hạ tầng chiến lược cho phát triển kinh tế số, xã hội số, chính phủ số
Nhiệm kỳ 2020 - 2025, Thứ trưởng Phạm Đức Long cho biết, ngành TT&TT đã tạo nên những dấu ấn bứt phá, khẳng định vai trò hạ tầng chiến lược cho phát triển kinh tế số, xã hội số và chính phủ số.
Trong lĩnh vực bưu chính, năm 2024, chỉ số tích hợp phát triển bưu chính của Việt Nam đã vươn lên vị trí 31 trên 174 quốc gia, tăng tới 18 bậc so với năm 2020, với tốc độ tăng trưởng bình quân 18% mỗi năm trong giai đoạn 2020 - 2024.
Trong lĩnh vực viễn thông, hạ tầng viễn thông trở thành hạ tầng số thiết yếu, xương sống của nền kinh tế số, nền tảng cho quá trình xây dựng xã hội số và hiện đại hóa Chính phủ số.
Năm 2024, lần đầu tiên Việt Nam đấu giá thành công tần số 5G, nâng tổng băng tần cho di động lên 660 MHz vào năm 2025, tăng 94% so với năm 2020. Chỉ số hạ tầng viễn thông đứng thứ 67 trên 193 quốc gia, tăng 7 bậc so với năm 2022.
Tốc độ Internet di động và cố định của Việt Nam, cùng xếp hạng 19 thế giới và tăng lần lượt 41 và 40 bậc so với năm 2020.
Tỷ lệ thuê bao băng rộng cáp quang trên 100 dân đạt 23,1%, vượt xa mức trung bình toàn cầu là 14%.
Vùng phủ sóng di động 4G đạt 99,8% dân số, cao hơn mức trung bình của các quốc gia phát triển trên thế giới là 99,5%. Tính đến tháng 6/2025, các nhà mạng đã triển khai tổng cộng 12.263 trạm phát sóng 5G trên toàn quốc. Tỷ lệ dân số được phủ sóng 5G đạt 26%.
Việt Nam cũng khẳng định vị thế hàng đầu thế giới về kết nối Internet thế hệ mới, với tỷ lệ sử dụng IPv6 đạt 65%, đứng thứ 7 toàn cầu, tăng 3 bậc so với năm 2020.
Về CĐS quốc gia và Chính phủ số, chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (CPĐT) năm 2024 đã tăng 15 bậc chỉ sau 2 năm, đứng vị trí 71 toàn cầu.
Trong lĩnh vực an toàn thông tin (ATTT), năm 2024, Việt Nam xếp hạng 17 trên 194 quốc gia về Chỉ số ATTT mạng toàn cầu (GCI) của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), thuộc nhóm “Kiểu mẫu”, tăng 8 bậc so với năm 2020 và đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á.
Công nghiệp công nghệ số (CNCNS) tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2024, quy mô đạt 158 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2020. Công nghiệp phần cứng, điện tử trở thành ngành xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch tương đương khoảng 30% GDP. Việt Nam xếp thứ 7 toàn cầu về Chỉ số vị trí dịch vụ, là điểm đến gia công phần mềm hàng đầu châu Á.
Kinh tế số và xã hội số đã thể hiện vai trò động lực then chốt. Tỷ trọng kinh tế số trong GDP dự kiến đạt 20,5% vào cuối năm 2025, tăng 8,6% so với năm 2021; tốc độ tăng trưởng khoảng 20% mỗi năm - gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP.
Những con số ấn tượng này không chỉ phản ánh tốc độ phát triển vượt bậc của ngành TT&TT mà còn là minh chứng cho quyết tâm xây dựng hạ tầng số vững mạnh, kết nối rộng mở, sẵn sàng bứt phá của Việt Nam trong kỷ nguyên số toàn cầu.
Kết quả thực hiện 3 đột phá chiến lược tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Về thực hiện chỉ tiêu, Thứ trưởng Phạm Đức Long cho biết Đại hội Đảng bộ đề ra 34 chỉ tiêu: Hoàn thành 32 chỉ tiêu; 2 chỉ tiêu không hoàn thành là xây dựng CPĐT (71/50) và Chỉ số ĐMST (44/35).
Về thể chế KHCN và ĐMST, Thứ trưởng cho biết lần đầu tiên, “đổi mới sáng tạo” được đặt ngang hàng với khoa học và công nghệ, khẳng định rõ vai trò trọng yếu của ĐMST trong phát triển và ứng dụng thực tiễn; chuyển phương thức quản lý từ đầu vào sang quản lý theo kết quả đầu ra, chấp nhận rủi ro, trao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình.
Theo Thứ trưởng, cơ chế mới cho phép tổ chức, cá nhân sở hữu và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, hưởng tối thiểu 30% lợi nhuận, được miễn giảm thuế thu nhập cá nhân. Định hướng chuyển từ sử dụng sang làm chủ công nghệ chiến lược. Kết quả KHCN và ĐMST phải đo lường được tác động, đóng góp trực tiếp vào nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển kinh tế - xã hội”.
Về thể chế viễn thông, tần số, đã tháo gỡ các điểm nghẽn để thúc đẩy việc đưa vào sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên tần số cho phát triển kinh tế, xã hội; quản lý, thúc đẩy hạ tầng viễn thông thế hệ mới, hạ tầng số.
Về CĐS, hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động giao dịch trên môi trường số.
Về CNCNS, hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển CNCNS, bán dẫn, AI và tài sản số, với chính sách ưu đãi đặc biệt cho các dự án trọng điểm trong các lĩnh vực này.
Về quy chuẩn, tiêu chuẩn và quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, xây dựng tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TCĐLCL) thành hạ tầng mềm chiến lược của ĐMST, CĐS và hội nhập; Lấy tiêu chuẩn để định hướng phát triển công nghệ, sản phẩm, thị trường, lấy quy chuẩn kỹ thuật để bảo vệ quyền lợi và an toàn của người dân; chuyển căn bản từ quản lý hành chính sang quản lý sản phẩm, hàng hóa theo mức độ rủi ro.
Về NLNT, hoàn thiện thể chế phù hợp quy định quốc tế cho chương trình phát triển nhà máy điện hạt nhân; xác lập vai trò, vị trí pháp lý của cơ quan an toàn bức xạ hạt nhân quốc gia; xã hội hóa hoạt động năng lượng nguyên tử; có chính sách để từng bước làm chủ công nghệ điện hạt nhân.
Đặc biệt, theo Thứ trưởng Phạm Đức Long, sự ra đời kịp thời của Nghị quyết 193/2025/QH15 tạo hành lang pháp lý thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia.
Phát triển đội ngũ trí thức, trọng dụng, thu hút chuyên gia hoạt động KHCN
Giai đoạn 2021 - 2025, Thứ trưởng Phạm Đức Long cho biết, Bộ KH&CN tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển đội ngũ trí thức, trọng dụng cá nhân hoạt động KH&CN, thu hút chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài và quốc tế nhằm hình thành nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao. Nhân lực nghiên cứu và phát triển, giai đoạn 2021 - 2023 tăng từ 187.298 lên 207.838 người (tăng 11%), trong đó nhà nghiên cứu chiếm hơn 80%.
Phát triển nhân lực số và phổ cập kỹ năng số được đẩy mạnh. Năm 2024 có hơn 412.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn về CĐS (tăng 35,3% so 2023). Chương trình phổ cập kỹ năng số đạt gần 40 triệu lượt truy cập nền tảng học trực tuyến (tăng 17 triệu). Hơn 93.000 Tổ Công nghệ số cộng đồng với gần 460.000 thành viên phủ 100% cấp xã, hỗ trợ người dân lên môi trường số, bảo đảm không bỏ ai lại phía sau.
Hạ tầng KHCN, ĐMST và CĐS được đầu tư mạnh mẽ
Giai đoạn qua, Thứ trưởng Phạm Đức Long nhấn mạnh hạ tầng KHCN, ĐMST và CĐS được đầu tư mạnh mẽ. Cả nước hiện có 6 khu công nghệ cao, thu hút hơn 304 dự án với sự tham gia của các tập đoàn lớn, hình thành hệ sinh thái nghiên cứu, đổi mới và đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Hạ tầng khu CNTT tập trung được phát triển, hỗ trợ DN CNTT và thúc đẩy ngành công nghiệp mũi nhọn. Hạ tầng chất lượng quốc gia xếp thứ 52/185 quốc gia; hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình tiếp tục hoàn thiện.
Hạ tầng bưu chính và viễn thông đã có bước phát triển mang tính bứt phá, đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm các “dòng chảy” vật chất và dữ liệu của nền kinh tế số. Mạng lưới bưu chính được mở rộng và hiện đại hóa tới tận thôn, bản, vận hành an toàn, thông suốt ngay cả trong các tình huống khẩn cấp, trở thành hạ tầng không thể thiếu của thương mại điện tử và đời sống xã hội.
Hạ tầng viễn thông tiếp tục khẳng định vị thế hạ tầng chiến lược quốc gia, bảo đảm kết nối rộng khắp và chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, nhất là trong bối cảnh cả nước chuyển sang vận hành theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp./.