Trải qua hơn nửa thế kỷ thành lập và phát triển, ASEAN ngày càng lớn mạnh, đạt nhiều thành tựu mang tính bước ngoặt, có sức ảnh hưởng lớn với nền kinh tế thế giới. Trong đó, Việt Nam đóng góp không nhỏ vào thành tựu chung của ASEAN.
ASEAN: Hành trình 51 năm hội nhập và phát triển
ASEAN được thành lập vào ngày 08/8/1967 tại Bangkok, Thái Lan với mục tiêu tập hợp lực lượng chính trị nhằm xây dựng, duy trì hợp tác phát triển kinh tế, chia sẻ thịnh vượng chung và đảm bảo hòa bình, ổn định trong vấn đề an ninh và của nền kinh tế khu vực Đông Nam Á. Sau 51 năm thành lập, hợp tác và không ngừng phát triển, ASEAN hiện bao gồm 10 thành viên trong khu vực Đông Nam Á với hơn 650 triệu dân, đứng thứ 3 ở khu vực châu Á về dân số, chiếm 8,59% tổng dân số thế giới, GDP bình quân đầu người đạt 4.305 USD.
Ngoài các trụ cột hợp tác về An ninh - Chính trị, Văn hóa - Xã hội, ASEAN cũng đã và đang tập trung vào hợp tác kinh tế thông qua việc thành lập Cộng đồng Kinh tế, coi đây là một trong ba trụ cột quan trọng nhất, nhằm hỗ trợ nhau cùng phát triển; xây dựng một cộng đồng ASEAN vững mạnh về kinh tế; lành mạnh, đa màu sắc về văn hóa và ổn định về an ninh, chính trị; phồn thịnh về an sinh xã hội, dù còn có sự khác biệt về tôn giáo về trình độ phát triển, về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin v.v..
Sự phát triển và hợp tác vững chắc của ASEAN đã góp một phần không nhỏ vào thành tựu chung của thế giới trong thiên niên kỷ mới nói chung, nâng cao vị thế của các nước ASEAN trên trường quốc tế nói riêng cũng như tạo tiền đề cho các khu vực khác đẩy mạnh hợp tác.
Lễ kỷ niệm 51 năm Ngày thành lập ASEAN (Ảnh: asean.org)
Một số thành tựu quan trọng trong trụ cột hợp tác kinh tế mà ASEAN đã đạt được trong những năm qua có thể kể đến như:
Về thương mại hàng hóa, theo cam kết của Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với các nước ASEAN-6 (5 nước sáng lập và Brunei), 99,2% số dòng thuế đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dòng thuế của các nước gia nhập sau là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam đã được xóa bỏ tính tới năm 2017. Dự kiến, tới hết năm 2018, tỉ lệ xóa bỏ thuế quan trong toàn ASEAN sẽ đạt 98,67%. Ngoài tự do hóa thuế quan, các nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp (DN) như dự án thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa v.v...
Về thương mại dịch vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu tiên quan trọng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), ký kết vào năm 1995 và tiếp tục được đàm phán nhằm tự do hóa dần dần thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Hiện nay, các nước ASEAN đang đặt mục tiêu sẽ hoàn tất đàm phán và ký kết Nghị định thư thực hiện Gói cam kết dịch vụ thứ 10 thuộc Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS-10) trong năm 2018.
Về đầu tư, ngày 15/12/1995 tại Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 5 của ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực đầu tư ASEAN (AIA - ASEAN Investment Area), nhằm tăng cường thu hút vốn và khả năng cạnh tranh để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ASEAN, nơi có nguồn lao động trẻ, rẻ và dồi dào. Sau nhiều nỗ lực thực thi Khu vực đầu tư ASEAN và Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), trong năm 2017, các nước ASEAN đã hoàn tất việc ký kết Nghị định thư thứ hai sửa đổi ACIA và tiến tới sớm hoàn thành ký kết Nghị định thư thứ ba sửa đổi Hiệp định này để tăng cường luồng đầu tư trong khu vực Đông Nam Á.
Về hợp tác nội khối và với bên ngoài, cho tới nay, ASEAN đã ký kết và thực hiện 6 hiệp định thương mại tự do (FTA) bao gồm: FTA nội khối ASEAN (AFTA); và 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand. Ngoài ra, hiện tại các nước thành viên ASEAN cũng đang đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand nhằm đạt được một hiệp định FTA toàn diện với mức độ cam kết cao hơn các FTA hiện nay giữa ASEAN với các nước đối tác này.
Về thành tựu phát triển kinh tế, trong hơn 50 năm qua, tổng thương mại hàng hóa của các nước ASEAN với thế giới đã tăng từ 10 tỷ USD/năm lên mức 2.575 tỷ USD vào năm 2017. Tổng thương mại dịch vụ tăng từ mức 140 tỷ USD năm 1999 lên mức kỷ lục 681 tỷ USD năm 2016. Theo số liệu thống kê sơ bộ, thương mại hàng hóa của ASEAN năm 2017 tăng ở mức 14,2% so với năm trước, cao hơn mức tăng trưởng 11,6% của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đến nay, ASEAN đã trở thành một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài, với dòng vốn FDI năm 2017 đạt 137 tỷ USD, tăng mạnh so với mức 22 tỷ USD năm 2000. Đầu tư nội khối ASEAN cũng tăng từ mức 5,6% lên 24,7% năm 2016. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ thu hút FDI lớn nhất vào ASEAN, tăng từ 50,8% năm 1999 lên 80,8% năm 2016, tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp, năng lượng và nông nghiệp.
Việt Nam chủ động, tích cực tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN
So với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN năm 1996 cho đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng xấp xỉ 7,7 lần, từ 5,91 tỷ USD năm 1996 lên 45,23 tỷ USD tại thời điểm tháng 11/2017, trong đó xuất khẩu hàng hóa của ta vào ASEAN tăng gần 12,4 lần, từ 1,6 tỷ USD năm 1996 lên 19,9 tỷ USD. Tính tới hết tháng 6/2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN là 28,1 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 12,2 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 15,9 tỷ USD .
Tính đến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là 98%. Như vậy, trong số 10 FTA mà Việt Nam đang thực hiện, FTA với nội khối ASEAN (AFTA) có tỷ lệ xoá bỏ thuế quan cao nhất là 98% với lộ trình thực hiện là 19 năm (cá biệt, một số ít mặt hàng có lộ trình là 25 năm).
Cũng theo số liệu của Bộ Công Thương, trong thời điểm 6 tháng đầu năm 2018, mức độ tận dụng C/O ưu đãi trong xuất khẩu của các DN Việt Nam đối với các FTA ASEAN và ASEAN cộng ở mức độ trung bình với Trung Quốc (23%), Nhật Bản (29%), mức độ khá với Australia - New Zealand (30%), ASEAN (33%), Hàn Quốc (33%) và ở mức độ tốt với Ấn Độ (44%). Về phía DN của Việt Nam, các DN FDI và các tập đoàn lớn có xu hướng vận dụng ưu đãi tốt hơn DN Việt Nam, DN nhỏ và vừa. Xét từ góc độ ngành, các ngành dệt may, da giày, cơ khí, nông sản chế biến vận dụng ưu đãi tương đối tốt để xuất khẩu.
Quá trình hội nhập ASEAN của Việt Nam đã được triển khai hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, để tận dụng tốt các cơ hội của việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025 và đảm bảo có thể hội nhập một cách chủ động, tích cực và phù hợp với lợi ích của cộng đồng DN trong quá trình cạnh khu vực và quốc tế, khai thác tốt hơn các ưu đãi trong các FTA trong khuôn khổ ASEAN, các DN Việt Nam cần cải thiện năng lực cạnh tranh, tìm ra cơ cấu sản phẩm hợp lý và nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia các FTA. Các Bộ, ngành trong hội nhập kinh tế ASEAN cần nâng cao hiệu quả công tác điều phối, phối hợp; cải tiến cơ chế tham gia các cuộc họp cấp kỹ thuật trong ASEAN để tiết kiệm nguồn lực và ngân sách; cũng như xác định chủ trương về vấn đề đối xử đặc biệt và khác biệt trong đàm phán các FTA trong giai đoạn từ năm 2018 trở đi.