IoT tác động đến thị trường chipset như thế nào

Phạm Thu Trang, Hồng Phương| 20/07/2018 16:19
Theo dõi ICTVietnam trên

Dự báo khả năng tăng trưởng thiết bị IoT trong tương lai gần là rất khả quan, nhưng biên độ dao động rất lớn theo thời gian. Ví dụ: 18 tỷ vào năm 2022; 26 tỷ đồng vào năm 2020; 75 tỷ năm 2025 và 125 tỷ vào năm 2030. Ericsson và Cisco đã từng dự báo sẽ có 50 tỷ thiết bị kết nối vào năm 2020. Chỉ số dự báo cuối cùng tỷ thể hiện kỳ vọng lớn cho tiềm năng của IoT, Bob Emmerson nói.

Những dự báo hiện tại đươc xem như thống nhất chung về định hướng tương lai rất tích cực của IoT. Hơn nữa những dự báo này sẽ thay đổi theo thời gian và các chuyên gia khác nhau xác định IoT theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, nếu một doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư quan trọng liên quan đến IoT ngay bây giờ thì các dự báo này có thể lệch với kế hoạch kinh doanh hàng chục tỷ. Và đó là tình trạng khó xử mà các nhà sản xuất chipset hiện đang phải đối mặt.

Thời gian sắp hết, Ville Ylläsjärvi, giám đốc tiếp thị và là thành viên của Hội đồng quản trị Haltian Oy cho hay. Haltian là một công ty Phần Lan có trụ sở tại Oulu, cách phía bắc Bắc Cực 150km về phía nam. Họ rất tích cực triển khai IoT, cài đặt mạng lưới cho các ngành công nghiệp khác nhau cũng như sự phát triển của các thiết bị di động IoT.

Ville nhấn mạnh theo dự báo của công ty nghiên cứu thị trường HIS Markit, vào năm 2025 thị trường sẽ có hơn 75 tỷ thiết bị thông minh, tăng 400% so với 15 tỷ thiết bị hiện nay. Do đó các nhà sản xuất phải chế tạo các vi mạch với tốc độ cao hơn gấp sáu lần so với trước đây kể từ khi Texas Instruments phát triển lần đầu tiên vào năm 1958.

Hiện nay các nhà sản xuất chip không có khả năng đáp ứng các yêu cầu IoT trong tương lai. Họ phải tăng cường đầu tư ngay từ bây giờ, chứ không thể chờ đến 2025 hay năm gần đấy để có thể phát triển hết tiềm năng của IoT. Tuy nhiên, ngoài vấn đề năng lực, còn có một vấn đề khác. Chipset sẽ sử dụng công nghệ kết nối nào? Liệu thị trường có ủng hộ LTE-M hay NB-IoT?

Nhà sản xuất bán dẫn Altair tin rằng rằng hầu hết các nước phương Tây cũng như các thị trường lớn cuối cùng sẽ sử dụng cả hai công nghệ, sự lựa chọn được xác định bởi ứng dụng. Hơn nữa sử dụng các mô-đun chế độ kép được hỗ trợ bởi cả NB-IoT và LTE-M đang được đưa thị trường. Ví dụ, Murata, nhà sản xuất linh kiện và giải pháp điện tử, đã thông báo rằng họ sẽ sử dụng chipset CAT-M1 / NB1 hai chế độ của Altair.

Sử dụng LTE-M hay NB-IoT: sự khác biệt là gì?

LTE (aka 4G) khác với các mạng trước đó bởi sự kết hợp giữa hiệu quả và tính linh hoạt. Hiệu quả nhờ một kiến ​​trúc đơn giản, phẳng, kiến trúc IP. Tính linh hoạt được thực hiện bằng công nghệ điều chế số cho phép băng thông hoạt động cách linh hoạt và nhờ thế các nhà khai thác mạng có thể cung cấp nhiều dịch vụ, bao gồm các dịch vụ tỷ lệ bit thấp sử dụng trong các giải pháp IoT, tức là NB-IoT và LTE-M.

Thật không may là ngành công nghiệp truyền thông di động có xu hướng áp đảo thị trường với các từ viết tắt bí ẩn và các định nghĩa kỹ thuật bí truyền, vì vậy hãy ngừng theo đuổi và cố gắng tóm tắt sự khác biệt giữa các dịch vụ này.

LTE-M là phản ứng của bộ phận kỹ thuật nhằm tiêu chuẩn hóa truyền thông di động cho các mạng diện rộng công suất thấp sử dụng công nghệ phổ rộng miễn phí. Đây là một tùy chọn hấp dẫn cho các nhà sản xuất thiết bị muốn triển khai trên các mạng di động hiện tại và được sử dụng trên diện rộng.

NB-IoT có mục tiêu tương tự như Cat-M nhưng sử dụng công nghệ khác (điều chế DSSS so với radio LTE). Cả LTE-M và NB-IoT đều là một phần của công nghệ 5G. NB-IoT (Cat NB1) rất linh hoạt: nó có thể hoạt động trong các băng tần 2G, 3G và 4G. Tuy chi phí triển khai cao hơn, nhưng nó đang được quảng cáo là một lựa chọn ít tốn kém hơn vì nó không cần cổng. Sẽ có các mô-đun chế độ kép trong tương lai hỗ trợ cả NB-IoT và LTE-M.

Các yếu tố khác cho thấy NB-IoT trở thành tùy chọn kết nối IoT tốt nhất bao gồm thiết kế cung cấp hiệu suất mạng thấp, tiết kiệm chi phí, hiệu suất mạng diện rộng với tốc độ dữ liệu được đo bằng vài trăm kbps, đủ cho hầu hết các ứng dụng IoT. nơi không cần chuyển số lượng lớn dữ liệu. Một điều nữa là thông báo gần đây về ưu đãi dịch vụ 1NCE  cung cấp 500 MB cho mỗi thiết bị trong hơn 10 năm với mức giá chỉ 10 €.

Ưu tiên khu vực

Tại Bắc Mỹ, cả Verizon và AT & T có thể sẽ sử dụng LTE-M vì cả hai công ty đã đầu tư hàng tỷ vào mạng LTE. Ban đầu họ không mấy quan tâm đến những thứ không dựa trên LTE, mặc dù Verizon đã công bố ủng hộ NB-IoT. Ngoài ra, AT & T cũng đang chuyển sang sử dụng NB-IoT. Công ty sẽ triển khai công nghệ này ở Hoa Kỳ vào đầu năm 2019 và sau đó mở rộng nó sang Mexico vào cuối năm.

Bên ngoài Hoa Kỳ và các quốc gia phổ biến sử dụng GSM hơn là LTE, NB-IoT sẽ trở thành công nghệ được ưa chuộng. Trung Quốc đã nắm lấy công nghệ NB-IoT kể từ khi công bố và nhờ có sáng kiến ​​mạnh mẽ của chính phủ. Mục tiêu là đạt được hơn 600 triệu kết nối vào năm 2020. Tuy nhiên có những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẽ triển khai Cat-M, bắt đầu với China Telecom.

Ai sẽ tham gia thị trường NB IoT-Chipset?

Nhà sản xuất bán dẫn, Huawei, Intel, Qualcomm, Samsung, Sierra Wireless và U-Blox là một trong số rất nhiều những đơn vị quảng bá chipset cho thị trường NB-IoT. Nick Hunn, Giám đốc công nghệ của WiFore Consulting, cho biết mười ba công ty khác nhau đang đưa chip ra thị trường và với khoản đầu tư khoảng 200 triệu đô la (171,72 triệu euro). Cùng chi phí của quy trình tiêu chuẩn hóa, phát triển cơ sở hạ tầng và thử nghiệm thị trường ban đầu, nâng giá trị đầu tư lên khoảng 500 triệu đô la (429,30 triệu đô la) và 1 tỷ đô la (0,86 tỷ euro).

Khoản đầu tư này đã được thực hiện để có được NB-IoT như hiện tại. Các khoản đầu tư được chi dùng cho công nghệ đối đầu là LoRa và SigFox vì các công ty NB-IoT sẽ làm mọi cách để thu hồi đầu tư. Tuy nhiên, NB-IoT sẽ sớm được triển khai trong tương lai.

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
IoT tác động đến thị trường chipset như thế nào
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO