Mặc dù là một trong những vùng đất có đa dạng sinh học phong phú nhất trên trái đất, môi trường nơi đây đang bị suy thoái nghiêm trọng. Đối với nông dân và cộng đồng có sinh kế phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên nơi đây, thích ứng sẽ là chìa khóa để tồn tại.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ước tính ĐBSCL mất khoảng 500 ha đất mỗi năm do xói lở. Ngoài ra, hoạt động quản lý đất và nước không bền vững đang làm ô nhiễm mạng lưới sông ngòi và kênh rạch chằng chịt ở đây. Vào mùa khô năm 2020, có những thời điểm mức độ xâm nhập mặn ở nhiều nơi đã tăng lên đến 4 g/lít, cao gấp 4 lần so với ngưỡng chịu mặn của các loại cây trồng chính, gây ra cuộc khủng hoảng thiếu nước ngọt trên toàn vùng.
Suy thoái môi trường đang đe dọa mạng sống và sinh kế của hàng triệu người dân trên khắp 13 tỉnh thành. Để ĐSBCL tiếp tục phát triển mạnh mẽ và là nguồn sống cho các thế hệ tương lai, nông dân và cộng đồng địa phương cần phải tìm cách sống hòa hợp hơn với thiên nhiên.
Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đưa ra nhiều quyết sách vĩ mô quan trọng đồng thời có những chương trình cụ thể, giúp hơn một triệu nông dân địa phương chuyển đổi sang những hình thức sản xuất thích ứng với khí hậu và sử dụng nguồn tài nguyên hiệu quả.
ĐBSCL có 4 tiểu vùng sinh thái với các đặc điểm thủy văn khác nhau và dự án đã hỗ trợ thực hiện những chiến lược phù hợp với từng tiểu vùng. Ở vùng thượng lưu châu thổ, mục tiêu là chủ động điều tiết nguồn nước ngọt và hấp thụ lũ, góp phần giảm thiểu hạn hán và xâm nhập mặn ở hạ nguồn. Ở vùng cửa sông, mục tiêu là thích ứng với độ mặn ngày càng tăng. Dọc theo bán đảo Cà Mau, việc bảo vệ vùng ven biển đang ngày càng trở nên dễ bị tổn thương với các hình thái thời tiết cực đoan cũng như giải quyết tình trạng khan hiếm nước ngọt là những ưu tiên hàng đầu.
Tại Cà Mau, nông dân được khuyến khích thử nghiệm các mô hình sinh kế dựa vào những gì tự nhiên vốn có để khai thác giá trị, để cân bằng giữa giữa duy trì sinh kế và bảo vệ môi trường. Hiện bán đảo đã bị xói lở bờ biển nghiêm trọng và sụt lún đất do trong nhiều năm nông dân phá rừng ngập mặn để nuôi tôm, khai thác quá mức nước ngầm và gây ô nhiễm nước mặt.
Nông dân đã được hướng dẫn mô hình nuôi thủy sản kết hợp vọp, ốc len, sò huyết hay tôm dưới tán rừng ngập mặn. Hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú là môi trường lý tưởng cho các loài này, cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên và bảo vệ chúng khỏi bệnh tật. Tôm sinh thái thường được bán với giá cao hơn ở các thị trường châu Âu vì đáp ứng những tiêu chuẩn hữu cơ.
Ở những khu vực khác, nông dân cũng được hướng dẫn nuôi tôm theo phương pháp sạch và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Ví dụ, người nông dân ở tỉnh Bạc Liêu đã áp dụng mô hình nuôi tôm sú kết hợp với cá rô phi. Họ thấy cách làm này giúp cải thiện chất lượng nước, giảm ô nhiễm môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi tôm.
"Nếu bà con thực hiện theo đúng quy trình này thì sẽ thành công" - Anh Phạm Thế Hòa, một nông dân ở huyện Đông Hải, cho biết: "Lựa con giống chất lượng, không xài hóa chất, sử dụng cá rô phi làm sạch ao tôm sẽ cho hiệu quả cao – đặc biệt tôi thấy sử dụng cá rô phi là rất hay ".
Trung tâm ĐBSCL đã được thành lập, đóng vai trò là đầu mối về thông tin tích hợp liên quan đến nước, đất, tài nguyên cũng như các chỉ số môi trường và khí hậu khác của ĐBSCL. Trên toàn vùng, đã có hơn 50 trạm quan trắc cung cấp thông tin cập nhật theo thời gian thực về tài nguyên nước và phát triển một bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định, phục vụ việc vận hành hiệu quả mạng lưới hạ tầng quản lý tài nguyên nước phức tạp trong vùng.
"Hợp tác và liên kết là chìa khóa để đảm bảo một tương lai thịnh vượng và thích ứng với khí hậu cho ĐBSCL. Tất cả mọi người ở mọi cấp - từ đồng ruộng đến công ty, từ địa phương đến trung ương, từ một tỉnh đến một tiểu vùng, hoặc toàn bộ vùng - phải nhìn rộng và xa hơn mối quan tâm trước mắt của mình và nghĩ về ĐBSCL một cách tổng thể và dài hạn." Đây là tầm nhìn xuyên suốt của vùng và là mục tiêu để những người nông dân ở đồng bằng Sông Cửu Long hướng tới.