NSLĐ có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2010, NSLĐ của khu vực kinh tế FDI đạt 186,23 triệu đồng/lao động, gấp 1,4 lần khu vực KTNN và gấp 8,6 lần khu vực ngoài nhà nước. Năm 2018, NSLĐ của khu vực kinh tế FDI đạt 225,12 triệu đồng/lao động gấp khoảng 1,3 lần khu vực KTNN và gấp 6,9 lần khu vực ngoài nhà nước.
Tuy nhiên, NSLĐ khu vực FDI tăng, giảm không ổn định và liên tục giảm từ năm 2016. NSLĐ của khu vực KTNN có xu hướng tăng dần, do đó khoảng cách về NSLĐ tuyệt đối với khu vực kinh tế FDI ngày càng thu hẹp. Những cải thiện đáng kể về NSLĐ của khu vực KTNN (từ mức 132,46 triệu đồng/lao động năm 2010 lên 175,37 triệu đồng/lao động năm 2018) đạt được là nhờ việc đẩy mạnh sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và dựa vào ưu thế trong việc phân bổ nguồn lực, được ưu đãi hơn trong tiếp cận các nguồn lực sản xuất. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước có NSLĐ thấp.
Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân có NSLĐ đạt 44,58 triệu đồng/lao động, thấp hơn khu vực kinh tế tập thể, khu vực KTNN và khu vực kinh tế FDI, nhưng cao hơn so với khu vực kinh tế cá thể và mức NSLĐ tổng thể nền kinh tế. Khu vực kinh tế cá thể có mức NSLĐ thấp nhất, đạt 17,83 triệu đồng/lao động năm 2010 và tăng lên mức 27,52 triệu đồng/lao động năm 2018, chưa bằng 1/2 NSLĐ tổng thể. Tuy nhiên, đây là khu vực kinh tế quan trọng vì tạo ra hơn 70% việc làm của nền kinh tế. Dù được coi là một động lực quan trọng của nền kinh tế nhưng khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn là DN nhỏ và siêu nhỏ nên gặp không ít khó khăn, thách thức trong việc nâng cao NSLĐ.
Xét ở góc độ kinh tế, NSLĐ của Việt Nam thời gian qua tiếp tục cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Với mức tăng trưởng kinh tế năm 2018 đạt 7,08%, NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước đạt 102,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.521 USD/lao động), cao hơn nhiều với mức 55,2 triệu đồng/lao động của năm 2011. Tính theo giá so sánh, NSLĐ nền kinh tế năm 2018 tăng 6% so với năm 2017 (bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,77%/năm), cao hơn so với mức tăng bình quân 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015, tính chung giai đoạn 2011-2018, NSLĐ tăng bình quân 4,88%/năm. NSLĐ ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Nếu như trong giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,91%/năm, trong đó lao động tăng 1,5%/năm; tăng NSLĐ đạt 4,35%/năm, thì trong 3 năm (2016-2018), mặc dù lao động chỉ tăng 0,88%/năm, nhưng NSLĐ đạt tốc độ tăng bình quân 5,77%/năm, cao hơn giai đoạn trước 1,42 điểm phần trăm, nên GDP tăng trưởng bình quân đạt tốc độ 6,7%/năm.
Tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2011-2018 tăng bình quân 4,8%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Singapore (1,4%/năm); Malaysia (2%/năm); Thái Lan (3,2%/năm); Indonesia 93,6%/năm); Phillipines (4,4%/năm). Từ thực tiễn sức mua cho thấy, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước trong khu vực ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Nếu năm 2011 NSLĐ của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Phillipines gấp NSLĐ của Việt Nam lần lượt 17,6 lần; 6,3 lần; 2,9 lần và 2,4 lần thì đến năm 2018 khoảng cách tương đối này giảm xuống mức tương ứng còn 13,7 lần; 5,3 lần; 2,7 lần và 2,2 lần.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy, NSLĐ của Việt Nam tăng đều qua các năm. Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao nhất trong khu vực ASEAN. Năm 2019, thu nhập bình quân đạt 110 triệu đồng/lao động và tăng tới 6,8% so với năm 2018.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với một số nước trong khu vực, đáng chú ý là chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Chênh lệch NSLĐ (tính theo PPP 2011) của Singapore và Việt Nam tăng từ 132.566 USD năm 2011 lên 141.276 USD năm 2018; Malaysia từ 42.397 USD lên 47.545 USD; Thái Lan từ 14.985 USD lên 18.973 USD; Indonesia từ 11.480 USD lên 13.707 USD; Phillipines từ 6.171 USD lên 8.776 USD. Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với thách thức lớn để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.
Xác định đúng hạn chế để tìm giải pháp hiệu quả
Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhưng NSLĐ của Việt Nam còn có những hạn chế.
Thứ nhất, các DN khó tiếp cận và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, tiếp cận tín dụng chính thức hạn chế, thiếu lao động có kỹ năng, khó tham gia, học hỏi từ chuỗi giá trị do các DN FDI dẫn dắt, hòa nhập chậm chạp vào chuỗi giá trị toàn cầu…
Thứ hai, việc khó tiếp cận và ứng dụng công nghệ vào sản xuất tạo áp lực cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và thế giới. Đến nay, NSLĐ của Việt Nam vẫn thấp hơn hầu hết các nước khu vực ASEAN. Đơn cử như: Singapore có NSLĐ cao gấp 13,7 lần Việt Nam; Malaysia cao gấp 5,3 lần; Thái Lan cao gấp 2,7 lần... Việt Nam chỉ đứng trên Campuchia trong ASEAN về NSLĐ.
Thứ ba, các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ mang tính chất động lực hay huyết mạch của nền kinh tế như: tài chính, ngân hàng, du lịch còn chiếm tỷ trọng thấp. Mặc dù, công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành dẫn dắt tăng trưởng NSLĐ, nhưng tập trung cao ở những sản phẩm xuất khẩu dựa trên nền tảng công nghệ thấp đến trung bình.
Thứ tư, hiện nay, phần lớn DN Việt Nam là DN vừa và nhỏ, tiềm lực về vốn hạn hẹp, khả năng đầu tư công nghệ hạn chế, kinh nghiệm quản lý sản xuất yếu và kém năng lực cạnh tranh, trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp, nhiều DN đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, tụt hậu 2 - 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới.
Thứ năm, trình độ công nghệ của DN còn lạc hậu, DN tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế. Qua nghiên cứu cho thấy, những DN có hoạt động nghiên cứu và phát triển có NSLĐ cao hơn 19,3% so với các DN còn lại. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ DN chi cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam còn thấp.
Làm gì để nhanh chóng cải thiện hiệu quả NSLĐ trong thời gian tới?
Theo ông Nguyễn Thiện Nhân, đại biểu Quốc hội đoàn TP. HCM, thì năng suất lao động có 2 loại thước đo là năng suất lao động kỹ thuật và năng suất lao động kinh tế. Năng suất lao động kỹ thuật đo bằng giá trị hiện vật, bằng sản phẩm do một người lao động tạo ra trong một giờ (chẳng hạn số áo một người công nhân may được trong một giờ, số mét vuông tường công nhân xây trong một giờ và số điện thoại di động công nhân lắp ráp được trong một giờ hay số lúa thu hoạch trong một hecta sau một vụ, số kg rơm/m2 trong một vụ).
Năng suất lao động kỹ thuật phụ thuộc vào trình độ công nghệ và thiết bị máy móc được ứng dụng, phụ thuộc vào chất lượng vật tư, trình độ lao động, phương pháp trả lương, chất lượng quản lý. Trong đó yếu tố quyết định của năng suất lao động kỹ thuật chính là trình độ công nghệ của thiết bị và khả năng của người lao động sử dụng thiết bị.
Còn năng suất kinh tế đo bằng giá trị gia tăng một lao động tạo ra và nó bằng năng suất kỹ thuật nhân với giá bán một sản phẩm trừ chi phí làm ra sản phẩm, không kể chi phí lao động. "Khác với năng suất lao động kỹ thuật, năng suất lao động kinh tế còn có yếu tố thị trường, đó là giá bán sản phẩm và chi phí làm ra sản phẩm, không kể chi phí lao động", ông Nguyễn Thiện Nhân phân tích.
Xếp hạng chỉ số nguồn nhân lực về mức độ sẵn sàng cho cách mạng công nghiệp 4.0 năm 2018. Nguồn: A.T. Kearney
ĐBQH Nguyễn Thiện Nhân từng kiến nghị, để xử lý bài toán năng suất ở Việt Nam, cần quan tâm đến 8 nhóm yếu tố:
Thứ nhất, nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất bởi năng suất lao động tỷ lệ thuận trực tiếp với vốn của xã hội trên lao động. Nói cách khác, đầu tư xã hội trên một lao động bao nhiêu thì năng suất lao động cũng tương thích bấy nhiêu.
Thứ hai, cần xác định mô hình sản xuất phù hợp, phải chuyển sang cơ chế thị trường. Nhưng trong nông nghiệp, hộ sản xuất cá thể vẫn còn đa số, điều đó không cho phép năng suất kinh tế cao, phải chuyển sang mô hình tập thể, hợp tác xã.
Thứ ba, phải đồng bộ 3 khâu sản xuất, đó là thiết kế sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và xây dựng thương hiệu.
Thứ tư, thị trường tín dụng phải đủ mạnh, phù hợp với các loại hình doanh nghiệp để phục vụ nhu cầu tăng vốn.
Thứ năm, quan tâm đến thị trường sản phẩm cả trong lẫn ngoài nước, từ đó kích cầu tiêu dùng trong nước.
Thứ sáu, nâng cao trình độ người lao động.
Thứ bảy, đầu tư nghiên cứu khoa học một cách xứng đáng.
Thứ tám, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, công khai, minh bạch, nghe dân, vì dân. Một thống kê cho thấy, không cần tăng đầu tư nhưng nếu chính quyền minh bạch sẽ giúp doanh nghiệp quyết định đầu tư nhanh hơn, hiệu quả hơn và GDP có thể tăng thêm 0,5 - 1,5%./.