Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 01/2012 ước tính đạt 134 triệu thuê bao, tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,5 triệu thuê bao cố định, xấp xỉ cùng thời điểm năm 2011 và 118,5 triệu thuê bao di động, tăng 4,5%. Năm 2011, Bưu chính viễn thông Việt Nam đạt tổng doanh thu ước tính gần 167,1 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 19,3% (tương đương với 283.000 tỷ đồng) so với năm 2010. Điểm đáng lưu ý là do chính sách cạnh tranh về giá cước và khuyến mại liên tục, thì trường chủ yếu là các thuê bao trả trước với khoảng gần 90%. Đây là yếu tố khiến chỉ số doanh thu bình quân tháng/thuê bao (APRU) chỉ ở mức 2-3$/tháng, mức thấp nhất trong khu vực và tác động trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà mạng. Phân tích sau đây sẽ chỉ ra những nguyên nhân và giải pháp cho doanh nghiệp nhằm duy trì và phát triển thuê bao di động trả sau.
MỘT SỐ ĐIÊM YẾU CỦA THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM
Bắt đầu từ năm 2003, thị trường viễn thông Việt Nam đã trải qua các giai đoạn cạnh tranh gay gắt về giá cước, chất lượng dịch vụ, chính sách chăm sóc khách hàng, công nghệ của các doanh nghiệp viễn thông.
Năm 2010, Doanh thu của Thị trường viễn thông Việt Nam đạt 9,41 tỷ USD, trong đó chỉ tính riêng doanh thu từ các dịch vụ viễn thông di động đạt 5,74 tỷ USD (chiếm 61% tổng doanh thu viễn thông. Theo Báo cáo tổng kết 2011 của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, tổng doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 120.800 tỷ đồng, tăng 18,26% so với năm 2010, lợi nhuận đạt gần 10.000 tỷ đồng. Trong đó, dịch vụ Bưu chính, Viễn thông và CNTT đạt 103.864 tỷ đồng, tăng 24,98% so với năm 2010. Nộp ngân sách nhà nước 6.461 tỷ đồng, đạt 118,55% kế hoạch. Trong các khoản doanh thu của VNPT, MobiFone chiếm 52% doanh thu và 50% lợi nhuận, Vinaphone chiếm gần 30% doanh thu và khoảng 30% lợi nhuận. Theo số liệu báo cáo của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Doanh thu năm 2011 đạt 117.000 tỷ đồng (tăng 28%), trong khi lợi nhuận đạt 20.000 tỷ đồng (tăng 23%) so với năm 2010. Theo đó, năm 2011, Viettel đã nộp ngân sách Nhà nước trên 10.000 tỷ đồng (tăng 25%), năng suất lao động đạt 4,7 tỷ đồng/người/năm (tăng 15%). Đến hết năm 2011, Viettel đã có số thuê bao điện thoại cố định hữu tuyến đạt 227.000, cố định vô tuyến là 1.952, thuê bao di động trả trước là 57,79 triệu và trả sau là 3,25 triệu thuê bao.
Mặc dù thị trường viễn thông Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới, tuy nhiên, theo tổng hợp của tác giả, thị trường viễn thông Việt Nam thời gian qua vẫn tồn tại một số điểm yếu:
Thứ nhất, Thị trường vẫn chủ yếu là thuê bao trả trước, trong khi các nhà mạng lại cạnh tranh về giá để thu hút thuê bao nên tỷ lệ doanh thu bình quân trên mỗi thuê bao (ARPU) có xu hướng giảm xuống rõ rệt. Mức ARPU trung bình hiện nay chỉ còn khoảng 2-3 USD/tháng, thay vì mức 5-6 USD như cách đây một, hai năm.
Thứ hai, Thiếu các đối tác chiến lược (các đối tác nước ngoài) trong hợp tác, cổ phần hóa. Việc rút lui của đối tác Vimpelcom năm 2012 (Mạng Beeline) và SK Telecom năm 2011 (Mạng S-Fone) càng cho thấy mức độ cạnh tranh gay gắt của thị trường viễn thông Việt Nam với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó là xu hướng sáp nhập, hợp nhất, chậm cổ phần hoá giữa các nhà mạng lớn (Viettel, VNPT) nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh và giữ thị phần càng khiến cho các nhà mạng nhỏ, đối tác chiến lược càng thấy khó duy trì/thâm nhập thị trường viễn thông Việt Nam.
Thứ ba, Thị trường di động chủ yếu tập trung vào khu đô thị lớn, trong khi đó, các khu vực về nông thôn vẫn chưa phát triển, nhất là mạng 3G mới chỉ chiếm 10%, vì thế nội dung số vẫn rất thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Theo các chuyên gia viễn thông, 3G tại Việt Nam có tốc độ 3G là 14Mbps, tương lai 21Mbps, 42Mbps và 84Mbps, dung lượng này đủ đáp ứng cho nhu cầu hiện tại và hỗ trợ cho tương lai. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra, để phát triển dịch vụ mạng 3G là làm sao người sử dụng phải thuận tiện khi truy cập vào 3G, các dịch vụ 3G phải thông suốt, đồng nhất và không phụ thuộc vào vị trí của người dùng. Điểm đáng lưu ý là hiện mới chỉ có trên 30,2 triệu người Việt Nam sử dụng điện thoại di động, chiếm 37,5% dân số. Ở khu vực thành thị, tỷ lệ người sử dụng điện thoại di động là trên 11,2 triệu người, đạt 49,5%; còn với khu vực nông thôn, có gần 33% người dân dùng điện thoại di động (theo kết quả cuộc Điều tra thống kê hiện trạng phổ cập dịch vụ điện thoại, Internet và nghe – nhìn toàn quốc năm 2010 công bố ngày 11/10/2011). Theo Bộ TT&TT, tiềm năng phát triển viễn thông tại Việt Nam còn dồi dào, bởi tỷ lệ thâm nhập di động và Internet băng rộng vẫn còn khá thấp. Do vậy, “Chính phủ Việt Nam chủ trương: Tiếp tục chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực; tăng cường thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế; có chính sách đặc biệt nhằm thu hút các tập đoàn đa quốc gia, các công ty trong và ngoài nước đầu tư phát triển viễn thông và không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi nhất cho viễn thông phát triển“ [1].
Thứ tư, thị trường viễn thông Việt Nam phát triển vẫn chưa bảo đảm tính bền vững và hiệu quả đầu tư, bảo vệ tài nguyên kho số: Các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vẫn chưa tham gia mạnh vào việc phát triển và cung cấp thiết bị đầu cuối như các nước; việc sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông vẫn chậm triển khai, việc giữ nguyên đầu số khi đổi mạng chưa được thực hiện, xuất hiện cạnh tranh không lành mạnh và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường v.v… Theo đánh giá của một số chuyên gia viễn thông và lãnh đạo các nhà mạng nhỏ (Vietnammobile, Beeline…), hiện nay mọi nguồn lực đều dồn cho các doanh nghiệp viễn thông lớn của Nhà nước (ví dụ: tần số có doanh nghiệp được cấp gấp nhiều lần doanh nghiệp nhỏ). Nhiều chính sách dường như vẫn bảo hộ doanh nghiệp lớn của Nhà nước: chính sách cước kết nối giữa các mạng di động nhỏ và các mạng di động lớn như (Viettel, MobiFone và VinaPhone) không thật sự thúc đẩy mạng nhỏ (trên thế giới thông thường chênh lệch mức cước kết nối giữa mạng lớn và mạng nhỏ là khoảng 35%. Trong khi đó, ở Việt Nam cũng có mức cước chênh lệch giữa mạng di động lớn và nhỏ, nhưng không đáng kể). Gần đây, các nhà mạng lớn bắt đầu tăng giá cho thuê nhà trạm lên 300%. Giá thuê kênh mà các nhà mạng nhỏ phải trả cho các doanh nghiệp truyền dẫn cũng tăng từ 2-3 lần so với trước đây…
Như vậy, chính những điểm yếu nêu trên cùng với chính sách cạnh tranh giá cước, khuyến mại, xu hướng phát triển công nghệ 3G/4G, kiểm soát thông tin thuê bao trả trước kém hiệu quả đã khiến cho thị trường phát triển không ổn định, tỷ lệ thuê bao trả trước (dễ biến động, ARPU thấp, lãng phí tài nguyên kho số) vẫn gấp nhiều lần thuê bao trả sau. Làm thế nào để thúc đẩy, phát triển và duy trì thuê bao trả sau để tăng doanh thu và tỷ lệ ARPU, duy trì tốc độ tăng trưởng, dành và giữ thị phần hiện đang đặt ra một bài toán khó cần phải giải đối với các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam.
GIẢI PHÁP DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN THUÊ BAO DI ĐỘNG TRẢ SAU
Từ hiện trạng của thị trường viễn thông Việt Nam như đã phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, xu hướng Thị trường viễn thông Việt Nam sẽ chuyển dần từ cạnh tranh giá cước, chất lượng dịch vụ, công nghệ sang hướng phát triển bền vững hơn của thị trường viễn thông thế giới như: Chia sẻ và dùng chung cơ sở hạ tầng mạng lưới, tăng tỷ lệ ARPU, giữ nguyên đầu số khi chuyển đổi mạng, nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cũng là nhà cung cấp thiết bị đầu cuối… Như vậy, giải pháp duy trì và phát triển thuê bao di động trả sau cũng phải được xây dựng trên cơ sở của xu hướng phát triển bền vững này của thị trường viễn thông thế giới. Dưới đây là một số đề xuất các chính sách/giải pháp mà các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam nên tập trung:
Thứ nhất, tăng tỷ lệ ARPU: Tại thị trường viễn thông các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển (Nhật, Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Đức, Singapore...), các nhà mạng khi cung cấp dịch vụ viễn thông cũng đồng thời là nhà cung cấp thiết bị đầu cuối (máy điện thoại) cho khách hàng. Do vậy, khách hàng sử dụng thuê bao di động khi ký hợp đồng với doanh nghiệp viễn thông theo các loại hợp đồng (12 tháng/ 24 tháng) sẽ căn cứ vào nhu cầu sử dụng dịch vụ của mình để lựa chọn gói cước phù hợp với khả năng chi trả hàng tháng của mình. Với các gói cước mà khách hàng lựa chọn, doanh nghiệp viễn thông sẽ bảo đảm/duy trì một tỷ lệ ARPU đối với mỗi khách hàng của mình (ví dụ: từ 19$-99$/thuê bao/tháng) để tiếp tục đầu tư và duy trì thị phần của mình. Đổi lại, khách hàng khi đã bảo đảm chi trả khoản cước phí hàng tháng sẽ được hưởng lợi từ doanh nghiệp viễn thông căn cứ vào nhu cầu sử dụng dịch vụ của mình: Số phút/tin nhắn/dịch vụ dữ liệu miễn phí, các dịch vụ GTGT miễn phí: mạng xã hội, Video..., hay thậm chí là cả thiết bị đầu cuối hiện đại của các nhà sản xuất hàng đầu thế giới như Samsung, Apple, Nokia, HTC... nếu như lựa chọn các gói cước hàng tháng từ 29$ trở lên (Bảng 1). Một số dòng máy điện thoại thông minh vừa ra mắt trên thị trường, chủ thuê bao có thể phải trả thêm một phí hàng tháng (5-20$) nếu chọn gói cước thấp hoặc miễn phí máy điện thoại nếu chọn gói cước thuê bao hàng tháng ở mức cao. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, họ không phải bỏ ra một số tiền lớn để mua máy như cách mà các doanh nghiệp viễn thông tại Việt Nam vẫn đang làm với dòng máy IPhone hoặc Blackberry.
Với cách làm trên, chủ thuê bao không phải bỏ ra ngay một khoản tiền lớn để mua thiết bị đầu cuối (vốn rất dễ trở lên lạc hậu do công nghệ thay đổi liên tục chỉ trong 1-2 năm) mà chỉ quan tâm đến các gói cước hàng tháng và dịch vụ GTGT do các nhà mạng cung cấp. Ngược lại, nhà mạng luôn duy trì được tỷ lệ ARPU ổn định và giữ chân được khách hàng của mình ít nhất là khi hết hợp đồng. Đây là điều mà các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cần tham khảo khi xây dựng các gói cước của mình.
Thứ hai, xoá bỏ cước thuê bao tháng đối với thuê bao trả sau: Một trong những thiệt thòi của các chủ thuê bao trả sau tại Việt Nam là việc họ vẫn phải trả các khoản thuê bao hàng tháng, trong khi giá cước của họ không giảm nhiều lắm so với các thuê bao trả trước do những ưu đãi về khuyến mại nạp thẻ mà các thuê bao này được hưởng. Đây là nguyên nhân chính khiến các chủ thuê bao không mặn mà với việc trở thành thuê bao trả sau và cùng với chính sách khuyến mại liên tục của thuê bao trả trước là nguyên nhân trực tiếp khiến cho tỷ lệ thuê bao trả trước tại Việt Nam gấp 8-9 lần so với thuê bao trả sau. Giải pháp đối với vấn đề này là các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam nên xoá bỏ cước thuê bao hàng tháng hiện nay hoặc chuyển sang thành số phút gọi/tin nhắn nội/ngoại mạng miễn phí hoặc gói cước dữ liệu mạng miễn phí hàng tháng.
Thứ ba, cung cấp nhiều gói cước với các dịch vụ GTGT cho thuê bao trả sau: Mặc dù vấn đề này hiện nay đã có một số doanh nghiệp viễn thông Việt Nam triển khai, tuy nhiên cách thức làm đang bộc lộ nhiều bất cập, cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm các quy định về quảng cáo, khuyến mại và chèn ép các doanh nghiệp nhỏ. Giải pháp để thực hiện vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một sự đầu tư bài bản, nghiêm túc vào các gói cước, chính sách marketing, quảng cáo đến từng khách hàng khi họ ký hợp đồng để khuyến khích họ sử dụng/chuyển đổi sang thuê bao trả sau với nhiều gói cước và chính sách ưu đãi vì lợi ích của chính khách hàng cũng như doanh nghiệp.
Thứ tư, trở thành doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông và thiết bị đầu cuối: Việc hợp tác với một số các nhà cung cấp thiết bị đầu cuối cũng đã được các doanh nghiệp viễn thông triển khai trong 1-2 năm qua (Viettel, VinaPhone, MobiFone) nhằm mang đến cho khách hàng các sản phẩm công nghệ có chất lượng tốt nhất. Tuy nhiên, nếu so sánh với các doanh nghiệp viễn thông tại các nước, thì có thể thấy rõ là các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam vẫn để ngỏ thị trường thiết bị đầu cuối này cho các doanh nghiệp khác kinh doanh. Hệ thống các cửa hàng chuyên doanh các thiết bị đầu cuối viễn thông (Viettel Store, VNPT 5G ) mặc dù đã hình thành nhưng chưa gắn chặt với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông do chỉ thuần tuý kinh doanh thiết bị đầu cuối viễn thông để cạnh tranh lại các doanh nghiệp vốn có bề dày, tiềm lực, kinh nghiệm trên thị trường này (FPT Shop, Thegioididong, ...). Xu thế tất yếu của thị trường viễn thông Việt Nam trong những năm tới sẽ là việc các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cũng đồng thời là nhà cung cấp thiết bị đầu cuối, dùng chung và chia sẻ cơ sở hạ tầng, giữ nguyên đầu số khi thay đổi mạng/nhà cung cấp. Để làm được điều này, doanh nghiệp viễn thông phải có đầy đủ tiềm lực về tài chính, tầm nhìn, chiến lược đầu tư bài bản, ký kết các hợp đồng mua bán/ hợp tác kinh doanh với các nhà sản xuất thiết bị đầu cuối trên thế giới để đưa đến cho người tiêu dùng (nhất là các chủ thuê bao trả sau) các dòng máy điện thoại hiện đại, nhiều tính năng để phát huy hết năng lực đầu tư và hạ tầng mạng của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vì lợi ích của doanh nghiệp, của nhà nước./.
Tài liệu tham khảo
[1]. Phát biểu của Thứ Thắng tại diễn đàn Tăng trưởng Viễn thông Việt Nam năm 2010 với chủ đề “Tối đa hóa các cơ hội tăng trưởng tại Việt Nam”
[2]. Bộ TT&TT www.mic.gov.vn
[3]. VNPT www.vnpt.com.vn;
[4]. Viettel Telecom www.vietteltelecom.vn
[5]. Vodafone Australia www.vodafone.com.au