Giải pháp duy trì và phát triển thuê bao di động: Khuyến nghị với doanh nghiệp viễn thông Việt Nam

03/11/2015 21:39
Theo dõi ICTVietnam trên

Số liệu của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, năm 2011, số lượng thuê bao di động và cố định mới của Việt Nam giảm 12,9% nhưng doanh thu lại tăng hơn 28 nghìn tỷ đồng so với năm 2010.

Số thuê bao điện thoại cả nước tính  đến cuối tháng 01/2012 ước tính đạt 134 triệu thuê  bao, tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước,  bao gồm 15,5 triệu thuê bao cố định, xấp xỉ cùng  thời điểm  năm  2011  và  118,5  triệu  thuê  bao  di  động, tăng 4,5%. Năm 2011, Bưu chính viễn thông  Việt Nam đạt tổng doanh thu ước tính gần 167,1  nghìn tỷ đồng, tăng hơn 19,3% (tương đương với  283.000 tỷ đồng) so với năm 2010. Điểm đáng lưu ý  là do chính sách cạnh tranh về giá cước và khuyến  mại liên tục, thì trường chủ yếu là các thuê bao trả  trước với khoảng gần 90%. Đây là yếu tố khiến chỉ  số doanh thu bình quân tháng/thuê bao (APRU) chỉ  ở mức 2-3$/tháng, mức thấp nhất trong khu vực và  tác động trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà mạng.  Phân tích sau đây sẽ chỉ ra những nguyên nhân và  giải pháp cho doanh nghiệp nhằm duy trì và phát  triển thuê bao di động trả sau.

MỘT SỐ ĐIÊM YẾU CỦA THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

Bắt đầu từ năm 2003, thị trường viễn thông Việt Nam đã trải qua các giai đoạn cạnh tranh gay gắt  về giá cước, chất lượng dịch vụ, chính sách chăm  sóc khách hàng, công nghệ của các doanh nghiệp  viễn thông.

Năm 2010, Doanh thu của Thị trường viễn thông Việt Nam đạt 9,41 tỷ USD, trong đó chỉ tính riêng  doanh thu từ các dịch vụ viễn thông di động đạt  5,74 tỷ USD (chiếm 61% tổng doanh thu viễn thông.  Theo Báo cáo tổng kết 2011 của Tập đoàn  Bưu  chính Viễn thông Việt Nam, tổng doanh thu toàn  Tập đoàn ước đạt 120.800 tỷ đồng, tăng 18,26% so  với năm 2010, lợi nhuận đạt gần 10.000 tỷ đồng.  Trong đó, dịch vụ Bưu chính, Viễn thông và CNTT  đạt  103.864  tỷ đồng,  tăng  24,98%  so  với  năm  2010. Nộp ngân sách nhà nước 6.461 tỷ đồng, đạt  118,55% kế hoạch. Trong các khoản doanh thu của  VNPT, MobiFone chiếm 52% doanh thu và 50% lợi  nhuận,  Vinaphone  chiếm  gần  30%  doanh  thu  và  khoảng 30% lợi nhuận. Theo số liệu báo cáo của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Doanh thu  năm 2011 đạt 117.000 tỷ đồng (tăng 28%), trong  khi lợi nhuận đạt 20.000 tỷ đồng (tăng 23%) so với  năm 2010. Theo đó, năm 2011, Viettel đã nộp ngân  sách  Nhà  nước  trên  10.000  tỷ đồng  (tăng  25%),  năng suất lao động đạt 4,7 tỷ đồng/người/năm (tăng  15%). Đến hết năm 2011, Viettel đã có số thuê bao  điện thoại cố định hữu tuyến đạt 227.000, cố định  vô  tuyến  là  1.952,  thuê  bao  di động  trả  trước  là  57,79 triệu và trả sau là 3,25 triệu thuê bao.

Mặc dù thị trường viễn thông Việt Nam có tốc độ  tăng  trưởng  nhanh  hàng đầu  thế  giới,  tuy  nhiên,  theo tổng hợp của tác giả, thị trường viễn thông Việt Nam thời gian qua vẫn tồn tại một số điểm yếu:

Thứ nhất, Thị trường vẫn chủ yếu là thuê bao trả  trước,  trong  khi  các  nhà  mạng  lại  cạnh  tranh  về  giá để thu hút thuê bao nên tỷ lệ doanh thu bình  quân trên mỗi thuê bao (ARPU) có xu hướng giảm  xuống rõ rệt. Mức ARPU trung bình hiện nay chỉ còn  khoảng 2-3 USD/tháng, thay vì mức 5-6 USD như  cách đây một, hai năm.

Thứ hai, Thiếu các đối tác chiến lược (các đối tác  nước ngoài) trong hợp tác, cổ phần hóa. Việc rút lui  của đối tác Vimpelcom năm 2012 (Mạng Beeline)  và SK Telecom năm 2011 (Mạng S-Fone) càng cho  thấy mức độ cạnh tranh gay gắt của thị trường viễn thông Việt Nam với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh  đó là xu hướng sáp nhập, hợp nhất, chậm cổ phần  hoá giữa các nhà mạng lớn (Viettel, VNPT) nhằm  gia tăng khả năng cạnh tranh và giữ thị phần càng  khiến cho các nhà mạng nhỏ, đối tác chiến lược  càng thấy khó duy trì/thâm nhập thị trường viễn  thông Việt Nam.

Thứ ba, Thị trường di động chủ yếu tập trung vào  khu đô thị lớn, trong khi đó, các khu vực về nông  thôn vẫn chưa phát triển, nhất là mạng 3G mới chỉ  chiếm 10%, vì thế nội dung số vẫn rất thiếu, chưa  đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Theo  các chuyên gia viễn thông, 3G tại Việt Nam có tốc  độ  3G  là  14Mbps,  tương  lai  21Mbps,  42Mbps  và  84Mbps, dung lượng này đủ đáp ứng cho nhu cầu  hiện tại và hỗ trợ cho tương lai. Tuy nhiên, vấn đề  đặt ra, để phát triển dịch vụ mạng 3G là làm sao  người sử dụng phải thuận tiện khi truy cập vào 3G,  các dịch vụ 3G phải thông suốt, đồng nhất và không  phụ thuộc vào vị trí của người dùng. Điểm đáng lưu  ý là hiện mới chỉ có trên 30,2 triệu người Việt Nam sử dụng điện thoại di động, chiếm 37,5% dân số.  Ở khu vực thành thị, tỷ lệ người sử dụng điện thoại  di động là trên 11,2 triệu người, đạt 49,5%; còn với  khu vực nông thôn, có gần 33% người dân dùng  điện thoại di động (theo kết quả cuộc Điều tra thống  kê hiện trạng phổ cập dịch vụ điện thoại, Internet  và nghe – nhìn toàn quốc năm 2010 công bố ngày  11/10/2011). Theo Bộ TT&TT, tiềm năng phát triển  viễn thông tại Việt Nam còn dồi dào, bởi tỷ lệ thâm  nhập di động và Internet băng rộng vẫn còn khá  thấp. Do vậy, “Chính phủ Việt Nam chủ trương: Tiếp  tục chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới  và khu vực; tăng cường thu hút đầu tư của các thành  phần kinh tế; có chính sách đặc biệt nhằm thu hút  các tập đoàn đa quốc gia, các công ty trong và ngoài  nước đầu tư phát triển viễn thông và không ngừng  hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận  lợi nhất cho viễn thông phát triển“ [1].

Thứ tư, thị trường viễn thông Việt Nam phát triển  vẫn chưa bảo đảm tính bền vững và hiệu quả đầu  tư,  bảo  vệ  tài  nguyên  kho  số:  Các  nhà  cung  cấp dịch vụ viễn thông vẫn chưa tham  gia mạnh vào việc phát triển và  cung  cấp  thiết  bị đầu  cuối  như  các nước; việc sử dụng chung cơ  sở hạ tầng viễn thông vẫn chậm  triển khai, việc giữ nguyên đầu số  khi đổi mạng chưa được thực hiện,  xuất hiện cạnh tranh không lành  mạnh  và  lạm  dụng  vị  trí  thống  lĩnh  thị  trường  v.v…  Theo đánh  giá  của  một  số  chuyên  gia  viễn  thông và lãnh đạo các nhà mạng  nhỏ  (Vietnammobile,  Beeline…),  hiện nay mọi nguồn lực đều dồn  cho các doanh nghiệp viễn thông lớn  của  Nhà  nước  (ví  dụ:  tần  số  có doanh nghiệp được  cấp  gấp  nhiều  lần  doanh  nghiệp nhỏ). Nhiều chính sách dường như vẫn bảo  hộ doanh nghiệp lớn của Nhà nước: chính sách cước  kết nối giữa các mạng di động nhỏ và các mạng  di động lớn như (Viettel, MobiFone và VinaPhone)  không  thật  sự  thúc đẩy  mạng  nhỏ  (trên  thế  giới  thông  thường  chênh  lệch  mức  cước  kết  nối  giữa  mạng lớn và mạng nhỏ là khoảng 35%. Trong khi  đó, ở Việt Nam cũng có mức cước chênh lệch giữa  mạng di động lớn và nhỏ, nhưng không đáng kể).  Gần đây, các nhà mạng lớn bắt đầu tăng giá cho  thuê nhà trạm lên 300%. Giá thuê kênh mà các nhà  mạng  nhỏ  phải  trả  cho  các  doanh  nghiệp  truyền  dẫn cũng tăng từ 2-3 lần so với trước đây…

Như vậy, chính những điểm  yếu nêu trên cùng  với  chính  sách  cạnh  tranh  giá  cước,  khuyến  mại,  xu hướng phát triển công nghệ 3G/4G, kiểm soát  thông tin thuê bao trả trước kém hiệu quả đã khiến  cho thị trường phát triển không ổn định, tỷ lệ thuê  bao trả trước (dễ biến động, ARPU thấp, lãng phí tài  nguyên kho số) vẫn gấp nhiều lần thuê bao trả sau.  Làm thế nào để thúc đẩy, phát triển và duy trì thuê  bao trả sau để tăng doanh thu và tỷ lệ ARPU, duy trì  tốc độ tăng trưởng, dành và giữ thị phần hiện đang  đặt ra một bài toán khó cần phải giải đối với các  doanh nghiệp viễn thông Việt Nam.

GIẢI PHÁP DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN THUÊ BAO DI ĐỘNG TRẢ SAU

Từ hiện trạng của thị trường viễn thông Việt Nam  như đã phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, xu  hướng Thị trường viễn thông Việt Nam sẽ chuyển  dần từ cạnh tranh giá cước, chất lượng dịch vụ, công  nghệ sang hướng phát triển bền vững hơn của thị  trường  viễn  thông  thế  giới  như:  Chia  sẻ  và  dùng  chung cơ sở hạ tầng mạng lưới, tăng tỷ lệ ARPU, giữ nguyên đầu số khi chuyển đổi mạng, nhà cung cấp  dịch vụ viễn thông cũng là nhà cung cấp thiết bị  đầu cuối… Như vậy, giải pháp duy trì và phát triển  thuê bao di động trả sau cũng phải được xây dựng  trên cơ sở của xu hướng phát triển bền vững này  của thị trường viễn thông thế giới. Dưới đây là một  số đề xuất các chính sách/giải pháp mà các doanh  nghiệp viễn thông Việt Nam nên tập trung:

Thứ nhất, tăng tỷ lệ ARPU: Tại thị trường viễn thông  các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát  triển (Nhật, Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Đức, Singapore...),  các nhà mạng khi cung cấp dịch vụ viễn thông  cũng đồng thời là nhà cung cấp thiết bị đầu cuối  (máy điện thoại) cho khách hàng. Do vậy, khách  hàng sử dụng thuê bao di động khi ký hợp đồng với  doanh nghiệp viễn thông theo các loại hợp đồng  (12 tháng/ 24 tháng) sẽ căn cứ vào nhu cầu sử dụng  dịch vụ của mình để lựa chọn gói cước phù hợp với  khả năng chi trả hàng tháng của mình. Với các gói  cước mà khách hàng lựa chọn, doanh nghiệp viễn  thông sẽ bảo đảm/duy trì một tỷ lệ ARPU đối với  mỗi khách hàng của mình (ví dụ: từ 19$-99$/thuê  bao/tháng) để tiếp tục đầu tư và duy trì thị phần  của mình. Đổi lại, khách hàng khi đã bảo đảm chi  trả khoản cước phí hàng tháng sẽ được hưởng lợi  từ doanh nghiệp viễn thông căn cứ vào nhu cầu sử  dụng dịch vụ của mình: Số phút/tin nhắn/dịch vụ dữ liệu miễn phí, các dịch vụ GTGT miễn phí: mạng  xã hội, Video..., hay thậm chí là cả thiết bị đầu cuối  hiện đại của các nhà sản xuất hàng đầu thế giới như  Samsung, Apple, Nokia, HTC... nếu như lựa chọn các  gói cước hàng tháng từ 29$ trở lên (Bảng 1). Một số  dòng máy điện thoại thông minh vừa ra mắt trên thị  trường, chủ thuê bao có thể phải trả thêm một phí  hàng tháng (5-20$) nếu chọn gói cước thấp hoặc  miễn phí máy điện thoại nếu chọn gói cước thuê  bao hàng tháng ở mức cao. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, họ không phải bỏ ra một số tiền  lớn để mua máy như cách mà các doanh nghiệp  viễn thông tại Việt Nam vẫn đang làm với dòng máy  IPhone hoặc Blackberry.

Với cách làm trên, chủ thuê bao không phải bỏ ra  ngay một khoản tiền lớn để mua thiết bị đầu cuối (vốn rất dễ trở lên lạc hậu do công nghệ thay đổi  liên tục chỉ trong 1-2 năm) mà chỉ quan tâm đến  các gói cước hàng tháng và dịch vụ GTGT do các  nhà mạng cung cấp. Ngược lại, nhà mạng luôn duy  trì được tỷ lệ ARPU ổn định và giữ chân được khách  hàng của mình ít nhất là khi hết hợp đồng. Đây là điều mà các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cần  tham khảo khi xây dựng các gói cước của mình.

Thứ hai, xoá bỏ cước thuê bao tháng đối với thuê  bao trả sau: Một trong những thiệt thòi của các chủ  thuê bao trả sau tại Việt Nam là việc họ vẫn phải trả  các khoản thuê bao hàng tháng, trong khi giá cước của họ không giảm nhiều lắm so với các thuê bao trả trước do những ưu đãi về khuyến mại nạp thẻ  mà các thuê bao này được hưởng. Đây là nguyên  nhân chính khiến các chủ thuê bao không mặn mà  với việc trở thành thuê bao trả sau và cùng với chính  sách khuyến mại liên tục của thuê bao trả trước là  nguyên  nhân  trực  tiếp  khiến  cho  tỷ  lệ  thuê  bao  trả trước tại Việt Nam gấp 8-9 lần so với thuê bao  trả sau. Giải pháp đối với vấn đề này là các doanh  nghiệp viễn thông Việt Nam nên xoá bỏ cước thuê  bao hàng tháng hiện nay hoặc chuyển sang thành  số phút gọi/tin nhắn nội/ngoại mạng miễn phí hoặc  gói cước dữ liệu mạng miễn phí hàng tháng.

Thứ ba, cung cấp nhiều gói cước với các dịch vụ GTGT cho thuê bao trả sau: Mặc dù vấn đề này hiện  nay đã có một số doanh nghiệp viễn thông Việt Nam triển khai, tuy nhiên cách thức làm đang bộc  lộ nhiều bất cập, cạnh tranh không lành mạnh, vi  phạm các quy định về quảng cáo, khuyến mại và  chèn ép các doanh nghiệp nhỏ. Giải pháp để thực  hiện vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một sự đầu tư bài bản, nghiêm túc vào các gói cước, chính sách marketing, quảng cáo đến từng khách hàng khi họ ký hợp đồng để khuyến khích họ sử  dụng/chuyển đổi sang thuê bao trả sau với nhiều  gói cước và chính sách ưu đãi vì lợi ích của chính  khách hàng cũng như doanh nghiệp.

Thứ tư, trở thành doanh nghiệp cung cấp dịch vụ  viễn thông và thiết bị đầu cuối: Việc hợp tác với  một số các nhà cung cấp thiết bị đầu cuối cũng đã  được các doanh nghiệp viễn thông triển khai trong  1-2 năm qua (Viettel, VinaPhone, MobiFone) nhằm mang đến cho khách hàng các sản phẩm công nghệ  có chất lượng tốt nhất. Tuy nhiên, nếu so sánh với  các doanh nghiệp viễn thông tại các nước, thì có  thể thấy rõ là các doanh nghiệp viễn thông Việt  Nam vẫn để ngỏ thị trường thiết bị đầu cuối này  cho các doanh nghiệp khác kinh doanh. Hệ thống  các cửa hàng chuyên doanh các thiết bị đầu cuối  viễn thông (Viettel Store, VNPT 5G ) mặc dù đã hình  thành nhưng chưa gắn chặt với doanh nghiệp cung  cấp dịch vụ viễn thông do chỉ thuần tuý kinh doanh  thiết bị đầu cuối viễn thông để cạnh tranh lại các  doanh nghiệp vốn có bề dày, tiềm lực, kinh nghiệm  trên thị trường này (FPT Shop, Thegioididong, ...). Xu  thế tất yếu của thị trường viễn thông Việt Nam trong  những năm tới sẽ là việc các nhà cung cấp dịch vụ  viễn thông cũng đồng  thời là nhà cung cấp thiết bị  đầu cuối, dùng chung và chia sẻ cơ sở hạ tầng, giữ  nguyên đầu số khi thay đổi mạng/nhà cung cấp. Để  làm được điều này, doanh nghiệp viễn thông phải  có đầy đủ tiềm lực về tài chính, tầm nhìn, chiến lược  đầu tư bài bản, ký kết các hợp đồng mua bán/ hợp  tác kinh doanh với các nhà sản xuất thiết bị đầu  cuối trên thế giới để đưa đến cho người tiêu dùng  (nhất là các chủ thuê bao trả sau) các dòng máy  điện thoại hiện đại, nhiều tính năng để phát huy  hết năng lực đầu tư và hạ tầng mạng của các nhà  cung cấp dịch vụ viễn thông vì lợi ích của doanh  nghiệp, của nhà nước./.

Tài liệu tham khảo

[1]. Phát biểu của Thứ Thắng tại diễn đàn Tăng trưởng Viễn thông Việt Nam năm 2010 với  chủ đề “Tối đa hóa các cơ hội tăng trưởng tại Việt Nam”

[2]. Bộ TT&TT www.mic.gov.vn

[3]. VNPT www.vnpt.com.vn;

[4]. Viettel Telecom www.vietteltelecom.vn

[5]. Vodafone Australia www.vodafone.com.au

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
Giải pháp duy trì và phát triển thuê bao di động: Khuyến nghị với doanh nghiệp viễn thông Việt Nam
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO