kinh tế tri thức

  •  Thách thức nào của quản lý khi tiến vào nền kinh tế tri thức?
    Trong thế kỷ XX, sự đóng góp quan trọng nhất và sự độc đáo của lĩnh vực quản lý là việc tăng năng suất lao động chân tay trong sản xuất lên 50 lần. Cũng như thế, sự đóng góp của lĩnh vực quản lý là được làm đối với bất kỳ quốc gia nào muốn tiến vào kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI, sẽ là việc nâng cao năng suất lao động các công việc tri thức và năng suất lao động của người lao động tri thức.
  •  Mô hình năng lực quốc gia của nền kinh tế tri thức (phần 1)
    Có 3 cách tiếp cận về tri thức gồm (1) tri thức là tài sản, (2) tri thức là quan hệ, và (3) tri thức là năng lực để phân nhóm các lý thuyết, nghiên cứu về kinh tế tri thức. Mặc dù cả 3 cách hiểu này về tri thức đều có ý nghĩa, nhưng chưa toàn diện để giải thích kinh tế tri thức.
  •  Mô hình năng lực quốc gia của nền kinh tế tri thức (phần 3)
    Năng lực phát triển khác với các năng lực căn bản của quốc gia. Một mặt năng lực phát triển đứng phía trên các năng lực căn bản do năng lực này hoạt động dựa trên hoạt động của các năng lực căn bản. Mặt khác, năng lực phát triển là một thành tố không tách rời trong chỉnh thể tương tác hợp nhất của ba loại năng lực căn bản của quốc gia trong kinh tế tri thức. Cả năng lực phát triển và các năng lực căn bản đều lấy nền kinh tế làm nền tảng cho sự hình thành và phát triển của mình.
  •  Mô hình năng lực quốc gia của nền kinh tế tri thức (phần 2)
    Cách tiếp cận tri thức là quan hệ có ưu điểm là giải thích được cấu trúc tổng thể và phức tạp của kinh tế tri thức. Tuy nhiên việc xem xét cùng lúc quá nhiều các chủ thể khác nhau cùng các mối quan hệ tương hỗ giữa các chủ thể làm các lý thuyết theo hướng này thiếu tính tập trung và độ sâu, nền kinh tế được mô tả như nhìn từ ngoài vào hơn từ bên trong ra.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO