Trên cơ sở nhận dạng tiềm năng của các nhà sáng chế không chuyên, bài viết đề xuất giải pháp chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên phục vụ cải tiến, nâng cao năng suất chất lượng phù hợp với bối cảnh của địa phương.
Tại sao lại gọi là nhà sáng chế không chuyên?
Nhà sáng chế không chuyên hay nhà khoa học “chân đất”, hay nhà sáng chế “nông dân”, hay nhà khoa học “không bằng cấp” là những tên gọi dân dã, trìu mến để vinh danh các cá nhân tạo ra giải pháp kỹ thuật, sáng kiến, sáng chế, sản phẩm công nghệ có tính sáng tạo, được ứng dụng, chuyển giao và mang lại giá trị gia tăng cho phát triển kinh tế, xã hội.
Các nhà sáng chế không chuyên thường là nông dân, lao động tự do, không được đào tạo bài bản, chính quy chuyên nghiệp, có kiến thức, học vấn không cao (thường không có bằng cấp như bằng trung cấp, cao đẳng hay đại học), hoặc nhà sáng chế không chuyên có thể các bạn học sinh phổ thông. Các giải pháp cải tiến kỹ thuật, sáng kiến, sáng chế của nhà sáng chế không chuyên thường được tạo ra để giải quyết những vấn đề thực tiễn, nảy sinh trong quá trình trải nghiệm cuộc sống và sản xuất kinh doanh.
Thuật ngữ “Nhà sáng chế không chuyên” chưa được định nghĩa trong các văn bản pháp quy của Việt Nam. Tuy nhiên, các hoạt động sáng tạo, sáng chế, sáng kiến,… của họ lại được khuyến khích, hỗ trợ, được quy định trong các văn bản pháp luật, ví dụ:
- Khuyến khích mọi hoạt động chuyển nhượng, chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi; áp dụng chế độ thưởng cho tập thể lao động và cá nhân có hoạt động đổi mới sáng tạo, sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, ứng dụng công nghệ mới được chuyển giao (Điều 69, Luật Khoa học và Công nghệ, 2013).
- Hỗ trợ việc triển khai áp dụng sáng kiến lần đầu, thỏa thuận và phối hợp với chủ đầu tư tạo ra sáng kiến để công bố, phổ biến, áp dụng rộng rãi đối với những sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi và mang lại lợi ích to lớn cho xã hội; Công bố, phổ biến, áp dụng rộng rãi các sáng kiến là giải pháp quản lý và giải pháp tác nghiệp trong lĩnh vực quản lý hành chính, sự nghiệp của Nhà nước và các sáng kiến tạo ra do Nhà nước đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất, kỹ thuật; Tổ chức các hội thi sáng tạo, triển lãm kết quả lao động sáng tạo, tuần lễ sáng kiến quốc gia, tổng kết và khen thưởng hoạt động sáng kiến hàng năm và các hoạt động khác để tôn vinh tổ chức, cá nhân điển hình và biểu dương các sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội; Tổ chức các diễn đàn cho hoạt động sáng kiến, như trang tin điện tử, câu lạc bộ sáng tạo; Phổ biến, tuyên truyền về các tổ chức, cá nhân điển hình trong phong trào thi đua sáng tạo (Điều 14, 15, Nghị định số 13/2012/NĐ-CP).
Các sáng chế, sáng kiến của nhà sáng chế không chuyên có thể mang lại giá trị kinh tế, có sức lan tỏa trong xã hội, nhưng có thể không được pháp luật bảo hộ, công nhận nếu không đáp ứng được các yêu cầu theo Luật Sở hữu trí tuệ (2005, sửa đổi 2009), Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN về hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ sáng kiến được ban hành theo Nghị định số 13/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Cụ thể:
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu có tính mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp. Còn sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường, có tính mới, có khả năng áp dụng công nghiệp.
Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật được cơ sở công nhận nếu có tính mới trong phạm vi cơ sở đó; đã được áp dụng hoặc áp dụng thử tại cơ sở đó và có khả năng mang lại lợi ích thiết thực. Hoạt động sáng kiến bao gồm các hoạt động tạo ra, áp dụng sáng kiến, công nhận sáng kiến, thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đến sáng kiến.
Như vậy, việc được bảo hộ sáng chế và được công nhận là sáng kiến theo quy định pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà sáng chế không chuyên, bên cạnh những hỗ trợ, ưu đãi của Chính phủ, chính quyền địa phương trong việc ứng dụng, khai thác, thương mại hóa, chuyển giao và nhân rộng sáng chế, sáng kiến vào thực tiễn cuộc sống.
Tiềm năng của nhà sáng chế không chuyên tại các địa phương?
Nhận biết được tầm quan trọng của các nhà sáng chế không chuyên đối với phát triển kinh tế, xã hội, đến nay phần lớn các địa phương đã ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích hoạt động sáng kiến, sáng chế, sáng tạo phù hợp với tình hình của địa phương trên cơ sở của Nghị định số 13/2012/NĐ-CP, Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN về hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ sáng kiến.
Để khẳng định tính ưu việt, đã có nhiều sáng chế, sáng kiến của các nhà sáng chế không chuyên của địa phương tham dự một số sự kiện, chương trình, cuộc thi tầm quốc gia như: kết nối cung - cầu, nhà sáng chế, sáng tạo Việt, cuộc thi sáng chế - sáng tạo công nghệ cho cuộc sống hàng ngày,… đồng thời, các địa phương cũng tổ chức nhiều sự kiện, chương trình, cuộc thi như sáng kiến cộng đồng, sáng tạo kỹ thuật, giải thưởng sáng chế. Qua đó, góp phần quan trọng trọng việc thúc đẩy hoạt động sáng chế, sáng kiến, đổi mới sáng tạo, gia tăng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ của các tầng lớp nhân dân, các nhà sáng chế tại các địa phương nhằm cải thiện năng suất, tạo ra giá trị gia tăng và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Các sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên tại các địa phương được đánh giá có tiềm năng lớn, có thể được ứng dụng, chuyển giao, nhân rộng để phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Thực tế cho thấy, số lượng đăng ký, cấp bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích được Cục Sở hữu trí tuệ thống kê hàng tháng, tuy nhiên số lượng sáng kiến thì lại do các cơ sở tự thành lập hội đồng và công nhận (Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN) nên chưa có cơ quan nào đứng ra thống kê, quản lý số lượng sáng kiến hàng năm, mà chủ yếu số lượng sáng kiến hiện nay được các Sở Khoa học và Công nghệ tại các địa phương thống kê, nhưng số liệu cũng chưa thực sự đầy đủ và còn nằm rải rác ở các ngành, địa phương.
Theo Cục Sở hữu trí tuệ, năm 2020 có hơn 125.000 đơn đăng ký (tăng 4,1% so với năm 2019), trong đó gần 77.000 đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp và Cục đã cấp văn bằng bảo hộ cho 48.072 đối tượng sở hữu công nghiệp (tăng 18,1% so với năm 2019). Tuy nhiên, số lượng đơn đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích của các nhà sáng chế không chuyên không đáng kể. Một trong các nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do các nhà sáng chế không chuyên không có kỹ năng viết đơn đăng ký sáng chế, đặc biệt là viết bản mô tả sáng chế theo mẫu quy định, mặc dù các nhà sáng chế không chuyên có thể diễn tả, mô tả được bằng lời nói rất thành thạo.
Bên cạnh đó, theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính tới ngày 7/4/2021, trên Cổng trực tuyến của Tổng Liên đoàn đã nhận được gần 85.000 sáng kiến vượt khó, phát triển của cán bộ công đoàn, đoàn viên từ 82 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (trong đó, có 10 đơn vị dẫn đầu về số lượng sáng kiến là các Liên đoàn Lao động tỉnh Nghệ An, Bắc Giang, Thanh Hóa, TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Tiền Giang, TP. Hà Nội, Hải Dương và TP. Hải Phòng). Tuy nhiên, số lượng sáng kiến này có được công nhận theo quy định tại Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN hay không thì chưa thực sự rõ ràng.
Đến nay, mặc dù đã có nhiều địa phương tiến hành thống kê các sáng kiến, sáng chế của nhà khoa học không chuyên, trung bình các địa phương có tới hàng nghìn các sáng kiến, sáng chế. Tuy nhiên, số lượng sáng kiến, sáng chế tham gia dự, đạt giải thưởng và được cấp bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, hay được công nhận là sáng kiến theo Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN thì lại chưa nhiều. Bảng 1 là ví dụ về một số địa phương tiêu biểu đã thống kê các sáng kiến, sáng chế đã đạt giải thông qua các cuộc thi; đồng thời bước đầu đã đánh giá hiệu quả của các sáng chế, sáng kiến này đối với sự phát triển của địa phương.
Sau đây là một số ví dụ minh họa điển hình về các sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên được áp dụng và mang lại giá trị gia tăng cao:
Tại một số tỉnh miền Bắc: nhà sáng chế Phạm Văn Hát (Hải Dương) với máy gieo hạt tự động (máy là có thể đặt hạt chính xác theo cự ly định sẵn, thay thế phần việc của 40 người, máy hiện có bán tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước và 14 nước trên thế giới như Đức, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc…);
Nhà sáng chế Tạ Đình Huy (Hà Nội) với chiếc máy nông nghiệp đa năng (đã tích hợp được 15 chức năng: cày, bừa, phay đất, làm cỏ vườn, tạo hàng để gieo hạt, tạo luống, tời kéo nông, lâm sản, đảo phân vi sinh, xẻ rãnh thoát nước, đào hố trồng cây, máy phát điện, kéo rơ-moóc trong nhà vườn trang trại, đào bồn cà phê, phun thuốc bảo vệ thực vật, bơm tát tưới tiêu), đến nay, đã sản xuất được hơn 1.000 máy và có vị thế ở thị trường trong nước;
Nhà sáng chế Trần Đại Nghĩa với máy cấy lúa (đương 8 người cấy, khoảng 4 sào/ngày, máy không dùng động cơ mà vận hành bằng sức kéo, nguyên liệu chủ yếu bằng thép hộp nên khá nhẹ trong quá trình di chuyển, vận hành).
Tại một số tỉnh miền Trung: nhà sáng chế Lê Văn Thành (Bình Định) với sáng chế máy tách hạt bắp gọn nhẹ, phù hợp với địa hình vùng đồi núi, hoạt động bằng máy dầu; nhà sáng chế Lê Hữu Minh (Thừa Thiên Huế) với chiếc máy ép dầu phụng - dầu mè bằng thủy lực, máy hoạt động với công suất ép 1,5 tấn lạc/ngày với giá thành rẻ, tiết kiệm nhân công; nhà sáng chế Trần Kim Hiệp (Quảng Ngãi) với chiếc máy bóc, lột vỏ keo lưu động (có thể thay thế cho 6 công lao động giỏi, có thể bóc và lột vỏ cây keo nhanh và còn thay thế công vận chuyển đưa gỗ keo đã lột vỏ lên xe có trọng tải lớn để vận chuyển đến nhà máy).
Tại một số tỉnh miền Nam: Nhà sáng chế Nguyễn Văn Rô (Cà Mau) với máy cày siêu nhẹ, có thể nổi trên mặt nước, dễ dàng di chuyển trong vùng kênh rạch ở miền Tây Nam Bộ, có nhiều ưu điểm hơn máy của Nga và Trung Quốc (đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 2-0002403, công bố ngày 25/09/2020);
Nhà sáng chế Nguyễn Thanh Hùng (Đồng Tháp) với chiếc máy nông nghiệp chuyên tuốt hạt vừng, rau đay, rau muống hiện đang bán ở một số tỉnh thành trong nước và xuất sang Campuchia;
Nhà sáng chế Phạm Văn Hùng (Tây Ninh) với giàn máy kết hợp bốn tính năng trong một là rọc rãnh, bỏ hạt, lấp rãnh, bón phân lót và máy hoàn toàn tự động trong quá trình sử dụng, giàn máy giải quyết được khó khăn về nhân công, giảm thiểu tối đa tổn thương hạt giống, đặc biệt đáp ứng nhu cầu cơ giới hóa cho những diện tích gieo trồng lớn.
Như vậy, mặc dù chưa có thống kê đầy đủ, nhưng có thể khẳng định rằng số lượng sáng kiến, sáng chế của nhà sáng chế không chuyên được gia tăng hàng năm, được áp dụng ngày càng nhiều bởi chúng giải quyết được các vấn đề cấp thiết mà tại địa phương đang gặp phải; đồng thời việc thiết kế, thử nghiệm, chế tạo các sản phẩm từ sáng kiến, sáng chế này nhìn chung đơn giản, dễ sử dụng, giá thành hợp lý, phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng địa phương, từng ngành, lĩnh vực.
Một số sản phẩm đã bước đầu đã có sự lan tỏa ra thị trường quốc tế, tuy nhiên phần lớn các sản phẩm tạo ra của nhà sáng chế không chuyên còn thiếu đồng bộ, chủ yếu tận dụng các thiết bị, máy móc cũ, tái sử dụng nguyên vật liệu, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về sản xuất công nghiệp, thị trường chấp nhận nhưng còn ở mức trung bình. Nhiều giải pháp chưa được đăng ký, bảo hộ sáng chế, chưa được công nhận sáng kiến theo quy định, các hoạt động hỗ trợ đưa sản phẩm ra thị trường, hoàn thiện sản phẩm được tạo ra từ sáng kiến, sáng chế sau các sự kiện, cuộc thi chưa thực sự đẩy mạnh, nhân rộng.
Các địa phương nên làm gì để hỗ trợ nhà sáng chế không chuyên?
Để các sáng kiến, sáng chế của nhà sáng chế không chuyên có khả năng ứng dụng, thương mại hóa phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, các địa phương nên:
Thứ nhất, rà soát, xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về sáng kiến, sáng chế của địa phương trên cơ sở tìm kiếm, tập hợp, cập nhật thường xuyên các sáng kiến, sáng chế trong các tổ chức, ngành, lĩnh vực của địa phương. Cơ sở dữ liệu này cần được tích hợp với cơ sở dữ liệu về khoa học và công nghệ, cơ sở dữ liệu của các sàn giao dịch công nghệ và thiết bị tại địa phương, đồng thời liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ (do Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia làm đầu mối). Các sáng kiến, sáng chế là nguồn cung quan trọng để phát triển thị trường khoa học và công nghệ tại địa phương, cũng như góp phần thúc đẩy, gia tăng giá trị giao dịch công nghệ trên thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam.
Thứ hai, hỗ trợ các sáng kiến có tiềm năng để có kế hoạch hỗ trợ ứng dụng và hỗ trợ kinh phí, thủ tục để được công nhận là sáng kiến theo hướng dẫn tại Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN về hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ sáng kiến được ban hành theo Nghị định số 13/2012/NĐ-CP của Chính phủ, gồm giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (Điều 3, Nghị định số 13/2012/NĐ-CP).
Cùng với đó, đẩy mạnh việc hỗ trợ các nhà sáng chế không chuyên trong việc xác lập quyền đối với các giải pháp kỹ thuật có tiềm năng để đăng ký, bảo hộ bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích. Các hoạt động hỗ trợ gồm: tra cứu nhanh để xác định tính khả thi trong việc đăng ký bảo hộ; tập huấn, hướng dẫn, hỗ trợ viết bản mô tả sáng chế; giới thiệu, tư vấn cho các nhà sáng chế không chuyên trong việc tiếp cận, sử dụng dịch vụ của đại diện sở hữu công nghệ; hỗ trợ thủ tục, thực hiện quy trình, hỗ trợ kinh phí để đăng ký, bảo hộ bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích. Trong quá trình tư vấn, hỗ trợ các nhà sáng chế không chuyên, cần tránh việc bị bộc lộ tính mới của các giải pháp. Nếu bị bộc lộ tính mới thì khó có khả năng được công nhận là sáng kiến, khó được cấp bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ ba, hỗ trợ hoàn thiện, nâng cấp sản phẩm từ sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên. Đối với các sáng kiến, sáng chế đã tham gia và có giải thưởng tại các cuộc thi (Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, Sáng tạo Việt, Nhà sáng chế, Hội thi sáng tạo kỹ thuật,…) thì địa phương nên tiếp tục hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm thông qua các đề tài, dự án của địa phương, cũng như hỗ trợ kết nối với các chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia, như Chương trình phát triển tài sản trí tuệ, Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa,… để hình thành các dự án nhằm hoàn thiện quy trình công nghệ, sản phẩm. Kết quả nghiên cứu của các dự án có thể đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích, tiếp đến là hỗ trợ các nhà sáng chế không chuyên hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ dựa trên các kết quả nghiên cứu này.
Thứ tư, hỗ trợ nhà sáng chế không chuyên tạo vốn thông qua kết nối với các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư mạo hiểm, các doanh nghiệp sản xuất, thiết lập và hỗ trợ việc hợp tác, liên kết giữa nhà sáng chế không chuyên với các nhà khoa học, nhà nước, nhà đầu tư, nhà tư vấn, nhà môi giới nhằm đẩy nhanh tiến trình thương mại hóa, đưa các sản phẩm được tạo ra từ sáng kiến, sáng chế ra thị trường.
Tổ chức tập huấn, hỗ trợ, tư vấn cho các nhà sáng chế không chuyên về cách thức tiếp cận vốn, gọi vốn, hợp tác sản xuất kinh doanh, các hình thức phân chia lợi ích; tư vấn về các phương thức chuyển giao sáng kiến, sáng chế; các nguyên tắc, phương pháp đánh giá, định giá, thẩm định giá sáng kiến, sáng chế; cách thức lập hợp đồng chuyển giao sáng kiến, sáng chế; tập huấn về các hình thức xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và hướng xử lý; các vấn đề liên quan tới cạnh tranh không lành mạnh trong sở hữu công nghiệp, xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; tư vấn về quy trình khai thác, thương mại hóa sáng kiến, sáng chế.
Thứ năm, các địa phương nên nghiên cứu, thử nghiệm chính sách mua lại các sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên, nghiên cứu, hỗ trợ hoàn thiện sáng chế, sáng kiến đã được áp dụng hiệu quả ở quy mô nhỏ để chuyển giao cho doanh nghiệp áp dụng, phổ biến cho công chúng trên tinh thần của Luật Chuyển giao công nghệ (2017); đồng thời rà soát, đánh giá các sáng kiến, sáng chế có tiềm năng của địa phương để hỗ trợ nhà sáng chế không chuyên khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hỗ trợ ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
Thứ sáu, hỗ trợ Nhà sáng chế không chuyên tuyên truyền, quảng bá để thúc đẩy thương mại hóa sáng chế, sáng kiến. Mục đích của việc tuyên truyền, quảng bá là để các nhà sáng chế không chuyên hiểu rõ hơn về các chính sách, pháp luật của Nhà nước, hiểu rõ hơn về tình trạng pháp lý, tình trạng kỹ thuật, tình trạng thị trường đối với các sáng kiến, sáng chế của mình.
Các hoạt động tuyên truyền, quảng bá về pháp luật, chính sách ưu đãi cho hoạt động khoa học và công nghệ nói chung, cho ứng dụng sáng kiến, sáng chế của nhà sáng chế không chuyên nói riêng cần được tổ chức thường xuyên thông qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí, hội thảo, hội nghị, tọa đàm, hoặc được lồng ghép trong các hội nghị chuyên đề về xúc tiến thương mại và đầu tư, các sự kiện kết nối cung cầu về công nghệ của địa phương.
Ngoài ra, các địa phương cần tiếp tục duy trì, đi vào thực chất, không phong trào hóa hoạt động sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên tại địa phương, nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông, hiệu quả tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm; các chương trình thu hình và trực tiếp được phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền hình địa phương; nghiên cứu thực hiện, phối hợp triển khai và đổi mới hình thức, phương thức tổ chức các Hội thi Sáng tạo kỹ thuật, các hội chợ Techmart, Techfest, Techdemo, sự kiện kết nối cung, cầu tại địa phương nhằm thúc đẩy ứng dụng, thương mại hóa, biến các sáng kiến, sáng chế của nhà sáng chế không chuyên thành giá trị kinh tế, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Cùng với đó là rà soát, hoàn thiện các chính sách theo hướng hỗ trợ tối đa nhà sáng chế không chuyên tại địa phương trên cơ sở triển khai hiệu quả Nghị định số 13/2012/NĐ-CP về Điều lệ Sáng kiến, Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN về hướng dẫn thi hành Điều lệ Sáng kiến, Thông tư số 27/2018/TT-BTC quy định chế độ tài chính cho hoạt động tổ chức Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ Việt Nam, Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật và Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên nhi đồng, Thông tư số 03/2019/TT-BTC quy định về nguồn kinh phí, nội dung và mức chi từ ngân sách Nhà nước để thực hiện hoạt động sáng kiến.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ KH&CN (2013), Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN về hướng dẫn thi hành Điều lệ Sáng kiến được ban hành theo Nghị định số 13/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2018), Thông tư số 27/2018/TT-BTC quy định chế độ tài chính cho hoạt động tổ chức Giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam, Hội thi sáng tạo kỹ thuật và Cuộc thi sáng tạo Thanh thiếu niên nhi đồng, Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (2019). Thông tư số 03/2019/TT-BTC quy định về nguồn kinh phí, nội dung và mức chi từ ngân sách Nhà nước để thực hiện hoạt động sáng kiến, Hà Nội.
4. Chính phủ (2012), Nghị định số 13/2012/NĐ-CP về Điều lệ Sáng kiến, Hà Nội.
5. Quốc hội (2013), Luật Khoa học và Công nghệ, Việt Nam.
6. Quốc hội (2017), Luật Chuyển giao công nghệ, Việt Nam.
7. Vụ Phát triển KH&CN địa phương (2021), Tổng hợp báo cáo hoạt động sáng kiến, sáng chế của Nhà sáng chế không chuyên tại địa phương theo Công văn số 1141/BKHCN-ĐP ngày 12/5/2021 của Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Xuyên (2016), Khai thác sáng chế trong ngành sản xuất có lợi thế cạnh tranh: Thực trạng và giải pháp chính sách, Tạp chí chính sách và quản lý KH&CN, tập 5, số 4 năm 2016.
9. Nguyễn Hữu Xuyên (2018), Cần những giải pháp đồng bộ để thúc đẩy khai thác, thương mại hóa sáng chế, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số tháng 9/2018.
10. Nguyen Huu Xuyen, Tran Lan Huong (2018), The solution to develop for Vietnam’s Science and technology market, International Journal of Research in IT and Management, Vol. 8, Issue 4, April-2018.
11. Thống kê đối tượng Sở hữu công nghiệp của 63 tỉnh, thành của Cục Sở hữu trí tuệ: http://noip.gov.vn/vi_VN/web/guest/danh-sach-sang-che-kieu-dang-cong-nghiep-nhan-hieucua-63-tinh-thanh
12. Nhà sáng chế: https://vtv.vn/nha-sang-che.html, Đài Truyền hình Việt Nam.
13. Nhà sáng chế “chân đất” đưa trí tuệ Việt ra thế giới: https://vov.vn/kinh-te/khoi-nghiep/nha-sang-che-chan-dat-dua-tri-tue-viet-ra-the-gioi-836481.vov
14. Mười sáng chế, giải pháp được trao giải Cuộc thi Sáng chế 2018: https://dangcongsan.vn/khoa-giao/10-sang-che-giai-phap-duoc-trao-giai-cuoc-thi-sang-che-2018-520524.html
15. Chương trình sáng tạo Việt: http://truongthanhmedia.com/du-an-noi-bat/sang-tao-viet/
16. Chương trình trực tuyến 75 nghìn sáng kiến vượt khó, phát triển của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam: http://congdoantttt.org.vn/tin-tuc/Tin-tuc-su-kien/106475/chuong-trinhtruc-tuyen-75-nghin-sang-kien-vuot-kho-phat-trien
(Bài viết đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 6 tháng 6/2021)