Nước ta đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong tương lai dựa trên các lĩnh vực dễ bị công nghệ thay thế trong những năm tới. Adidas xây dựng một nhà máy Speedfactory hoàn toàn tự động của mình tại Đức, sẽ được hoàn thành vào cuối năm nay như là một phần của dự án lớn hơn để sản xuất, phân phối và sản xuất cụm. Đây là một tín hiệu cho một xu hướng đáng lo ngại đối với các nước như Việt Nam. Không có nhu cầu toàn cầu về lao động giá rẻ, Việt Nam và các nước đang phát triển tương tự có thể phải cạnh tranh để thu hút doanh nghiệp quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), và do đó đi theo con đường truyền thống của công nghiệp hóa và hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu, với ý nghĩa mang lại sự ổn định chính trị khu vực.
Việt Nam bắt đầu thời kỳ tăng trưởng và công nghiệp hóa hiện nay vào năm 1986, khi Chính phủ bắt đầu một loạt cải cách kinh tế với chính sách Đổi mới. Từ năm 2000 đến năm 2010, Việt Nam đã tăng gấp ba lần GDP bình quân đầu người. Phản ánh mô hình công nghiệp hóa truyền thống, công nhân đã chuyển từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Năm 2005, nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ lần lượt sử dụng 57,9%, 17,4% và 24,8% lực lượng lao động của Việt Nam. Năm 2014, những con số này đã thay đổi thành 46,8%, 21,2% và 32,0%, với ngành công nghiệp và dịch vụ đóng góp nhiều nhất vào GDP của Việt Nam trong năm đó và những năm tiếp theo. Vào năm 2016, Việt Nam có mức tăng trưởng GDP chung là 6,2% và dự kiến sẽ tiếp tục giữ vững mức tương tự trong vài năm tới. Chi phí tiền lương cho công nhân ở Trung Quốc tăng, cùng với nhu cầu về điều kiện làm việc tốt hơn của người lao động Trung Quốc đã giúp Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất gia công cạnh tranh hơn. Dữ liệu gần đây cho thấy: Năm 2016 chứng kiến dòng vốn FDI vào Việt Nam đạt mức cao kỷ lục. Giống như các nền kinh tế Asian Tiger trước đây, Việt Nam dự kiến sẽ thu hút những công việc sản xuất có tay nghề thấp hơn khi Trung Quốc đẩy mạnh chuỗi giá trị, tiếp tục phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, kỳ vọng về một mô hình tăng trưởng như vậy có thể sớm bị lỗi thời với sự gia tăng của tự động hóa. Trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN-5), bao gồm Campuchia, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam, Việt Nam dự kiến sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi sự thay thế công nghệ, với 70% lực lượng lao động hiện tại có nguy cơ cao sẽ bị thay thế trong tương lai gần. Điều này cho thấy rằng nếu Việt Nam tiếp tục đi theo mô hình tăng trưởng hiện tại và ưu tiên thu hút sản xuất kỹ năng thấp, lương thấp, thì nó có thể gây nguy hiểm cho sự phát triển dài hạn của đất nước để đạt được những lợi ích ngắn hạn.
Một trong những lĩnh vực mà Việt Nam hiện đang thiếu khả năng để sử dụng các quy trình sản xuất ngày càng tự động là ở các cấp độ kỹ năng của công nhân. Việt Nam phải đối mặt với sự thiếu hụt kỹ năng đáng kể khi đối mặt với những thay đổi này. Khoảng 75% lực lượng lao động của Việt Nam hiện không có bằng cấp, khiến 3/4 lực lượng lao động hiện tại không có các kỹ năng cần thiết để tìm được việc làm mới ngay lập tức khi họ bị máy móc thay thế, hoặc đảm nhận các công việc có tay nghề cao được yêu cầu bởi các quy trình sản xuất tinh vi mới. Với rất nhiều lực lượng lao động không có kỹ năng, việc đầu tư ngay lập tức vào giáo dục và đào tạo lại - một đề xuất chung trong thế giới phát triển – là điều bắt buộc. Tuy nhiên, đây có thể là một giải pháp chưa hoàn chỉnh, vì sự đổi mới công nghệ hiện tại đang tạo ra ít việc làm hơn trong các lĩnh vực đòi hỏi kỹ năng thấp, thu nhập thấp so với số lượng công việc bị thay thế, khiến một phần lớn dân số thất nghiệp, bất kể họ có được đào tạo lại. Do đó, Việt Nam có thể tìm kiếm và đầu tư vào các ngành thay thế, ít nhạy cảm với tự động hóa do sự phức tạp vốn có của chúng hoặc tính chất con người giữa các cá nhân như sức khỏe con người và công việc xã hội. Đây là những giải pháp khả thi nhưng chưa hoàn toàn tối ưu. Bất kể Việt Nam lựa chọn con đường cụ thể nào, nước ta vẫn phải bắt đầu nghĩ đến các giải pháp vì vẫn có nguy cơ xảy ra tình trạng thất nghiệp hàng loạt.
Trong khi mối đe dọa chủ yếu của tự động hóa đối với Việt Nam là về vấn đề kinh tế, sự lan toả đáng kể vẫn tồn tại đối với cả Việt Nam và khu vực Đông Á. Như với Speedfactories của Adidas, khi các tập đoàn quốc tế sản xuất, phân phối và đặt cơ sở tiêu dùng gần nhau, phạm vi và tầm quan trọng của chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực liên kết các nước đang phát triển và phát triển bị thu hẹp. Trong chuỗi cung ứng tăng trưởng của họ nằm ở các khu vực đã phát triển, cả hai đều hạn chế khả năng các nước đang phát triển hội nhập vào thị trường toàn cầu và phá vỡ các mối liên kết kinh tế quan trọng ở cấp độ toàn cầu và khu vực. Trong khi sự cố như vậy không trực tiếp gây ra xung đột, nghiên cứu khoa học chính trị đã chỉ ra rằng việc thiếu liên kết kinh tế giữa các quốc gia làm tăng khả năng xảy ra xung đột và mâu thuẫn. Trong một khu vực như Đông Á, nơi có cả vấn đề về mâu thuẫn lãnh thổ và chuỗi giá trị khu vực rộng lớn, thường xuyên liên kết vào các chuỗi giá trị toàn cầu lớn hơn, việc phá vỡ các mối liên kết kinh tế có thể đặc biệt nguy hiểm. Bất chấp mối quan hệ Trung Quốc với Việt Nam, Trung Quốc vẫn là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của nước ta, các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông luôn đe dọa mối quan hệ hòa bình và ổn định khu vực. Vào năm 2014, năm mà một cuộc bạo loạn gây tranh cãi nổ ra trên khắp Việt Nam chống lại các nhà máy Trung Quốc và doanh nghiệp thuộc sở hữu của Trung Quốc, một cuộc thăm dò cho thấy 74% người tham gia khảo sát tại Việt Nam tin rằng Trung Quốc là một mối đe dọa, với 84% những người được hỏi thể hiện sự quan tâm đến tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Ngay cả khi Chính phủ có thể tiếp tục mối quan hệ thương mại hiện tại với Trung Quốc và định vị chính mình để tiếp thu công việc từ Trung Quốc, tình trạng hỗn loạn trong nước có thể xảy ra khi công nhân Việt Nam đang dần bị thay thế bởi công nghệ và thất nghiệp, có khả năng gây ra sự xung đột lớn.
Mặc dù Việt Nam là một trường hợp cụ thể, tình trạng của nước ta không phải là duy nhất. Trên toàn cầu, các nước đang phát triển phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tương tự, với 87% việc làm ở các nước đang phát triển bị đe dọa bởi tự động hóa trong hai thập kỷ tới, gần gấp đôi số lượng việc làm bị đe dọa ở Hoa Kỳ. Các giải pháp được đề xuất trong thế giới phát triển, chẳng hạn như tiền lương đồng nhất toàn khu vực hoặc đào tạo lại toàn bộ dân số là không thực tế đối với các nước đang phát triển. Bởi vì các nước đó không có đủ ngân sách để tài trợ cho chương trình tiền lương đồng nhất hoặc các có quá ít các tổ chức giáo dục, không được trang bị hoặc không có khả năng đào tạo lại công nhân bị thay thế. Mặc dù các nền kinh tế tiên tiến phải giải quyết các vấn đề gây ra bởi công nghệ trong nước, nhưng họ không nên bỏ qua các vấn đề rộng lớn hơn đối với các nước đang phát triển trên thế giới, và sự lan tỏa phi kinh tế, và gây nguy hiểm tiềm tàng cho chính những nước phát triển.