Hàng chục doanh nghiệp nội, ngoại chạy đua thu hút người dùng khiến cho cuộc cạnh tranh trên thị trường trở nên khốc liệt.
"Bùng nổ" truyền hình trả tiền OTT
Hiện nay cả nước có 35 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền với 13,8 triệu thuê bao phát sinh cước phí hàng tháng. Việt Nam hiện có 5 loại hình dịch vụ truyền hình trả tiền là: truyền hình cáp, truyền hình kỹ thuật số mặt đất, truyền hình số vệ tinh, truyền hình di động và phát thanh truyền hình trên mạng Internet. Trong đó, có tổng cộng 10 triệu thuê bao truyền hình cáp, 200.000 thuê bao truyền hình mặt đất, 1 triệu thuê bao truyền hình số vệ tinh, 1 triệu thuê bao truyền hình Internet và khoảng 480.000 thuê bao truyền hình di động.
Về các kênh, hiện Việt Nam hiện có 87 kênh phát thanh trong nước, 199 kênh truyền hình trong nước và 70 kênh truyền hình nước ngoài đang phát sóng. Thống kê doanh thu năm 2019 của toàn thị trường truyền hình trả tiền tại Việt Nam ước đạt 8.600 tỉ đồng. Trong 6 tháng đầu năm nay, doanh thu của thị trường truyền hình trả tiền tại Việt Nam hiện đạt 4.400 tỉ đồng, tăng 5,7% so với con số 4.160 tỉ đồng ở thời điểm cùng kỳ năm ngoái bất chấp dịch Covid-19. Số lượng thuê bao sử dụng dịch vụ cũng tăng 27% so với cùng kỳ năm 2019.
Thống kê cho thấy, trong số 35 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ trả tiền, có tới 20 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình Internet. Đây là dịch vụ giúp đáp ứng xu hướng xem truyền hình trên các thiết bị di động và xu hướng cá nhân hóa nội dung của người dùng.
Tính đến tháng 8-2020, đã có tổng cộng 30 triệu lượt tải và đăng ký ứng dụng xem truyền hình của các doanh nghiệp trong nước. Doanh thu của dịch vụ truyền hình OTT đã tăng gấp 5 lần trong khoảng thời gian từ năm 2017-2019. Tuy vậy, về tỷ trọng doanh thu giữa truyền hình OTT khoảng 120 tỉ và truyền hình truyền thống gần 8.600 tỉ vẫn còn một khoảng cách rất lớn.
Đại diện nhà mạng MobiFone (truyền hình MobiTV, truyền hình OTT ON+…) cho biết: "Truyền hình trên mạng Internet (OTT TV, truyền hình OTT) có tốc độ tăng trưởng rất nóng từ cả thuê bao lẫn doanh thu, trong đó doanh thu tăng gấp 5 lần trong khoảng thời gian từ 2017-2019. Hiện cả nước có 35 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền, trong đó 20 doanh nghiệp là cung cấp dịch vụ truyền hình OTT. Tuy nhiên, con số thực tế thì nhiều hơn do thị trường còn có sự tham gia của rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ OTT xuyên biên giới như Netflix, Tencent, Baidu…".
Đại diện VinaPhone đơn vị sở hữu truyền hình MyTV cho hay: "để cạnh tranh với truyền hình trong nước và doanh nghiệp ngoại ngoài việc đảm bảo kho nội dung lên tới hàng trăm nghìn giờ nội dung, MyTV hiện đang đầu tư mạnh vào các nội dung khác biệt, đặc biệt những thể loại nội dung được khán giả ưa chuộng như phim ảnh, âm nhạc, thiếu nhi, thể thao… Với nội dung đa dạng, khác biệt về cả kênh và video theo yêu cầu (VOD), MyTV tự tin có thể cạnh tranh với các ứng dụng này trong bối cảnh có môi trường cạnh tranh sòng phẳng, công bằng".
Hiện các dịch vụ nước ngoài chỉ có thể cung cấp dịch vụ VOD chứ chưa cung cấp được gói kênh truyền hình, đặc biệt là các kênh truyền hình trong nước, đây cũng là nội dung thiết yếu cho người dân ở mọi miền. Ngoài ra theo xu hướng toàn cầu, thì sản xuất nội dung gốc (Original series) là một việc bắt buộc phải làm, trong thời gian tới MobiFone sẽ nghiên cứu xây dựng phương án để sản xuất các nội dung đặc sắc cung cấp cho tập thuê bao của mình để tiếp tục phát triển, cạnh tranh tại thị trường Việt Nam.
Cạnh tranh giành thị phần gay gắt
Trong thời gian vừa qua, tại Việt Nam, dịch vụ truyền hình trả tiền nói chung và dịch vụ truyền hình OTT nói riêng đã phục vụ tốt nhu cầu thông tin, giải trí của người dân đặc biệt trong giai đoạn cả nước thực hiện giãn cách xã hội để phòng dịch bệnh Covid-19.
Đại diện mạng viễn thông VinaPhone, chủ sở hữu thương hiệu Truyền hình MyTV, cho biết: "Nhu cầu giải trí ngày càng tăng cao, đặc biệt giải trí theo yêu cầu, dẫn tới thị trường dịch vụ OTT càng trở nên sôi động. Thị trường truyền hình OTT hiện đang cạnh tranh rất gay gắt, với hàng trăm ứng dụng trong và ngoài nước, từ ứng dụng chính thống cho tới ứng dụng lậu.
Theo doanh nghiệp này, tại thị trường Việt Nam, truyền hình OTT chủ yếu được cung cấp miễn phí với các gói nội dung cơ bản, thu phí với các gói nội dung cao cấp, nhưng nguồn thu chính lại đến từ quảng cáo. Thị trường tuy sôi động là vậy, nhưng phần lớn khán giả Việt Nam lại tìm tới các ứng dụng OTT lậu, xuyên biên giới, khiến các doanh nghiệp Việt khá chật vật trong việc kiếm chỗ đứng trên thị trường.
Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam (VNPayTV) cho biết: "Về dịch vụ truyền hình OTT xuyên biên giới được các đơn vị nước ngoài có tiềm lực kinh tế tài chính rất mạnh, cung cấp bản quyền và khả năng độc quyền cao với kho nội dung khổng lồ, về phim điện ảnh, phim truyền hình, chương trình truyền hình thực tế, các giải thể thao, giải bóng đá hấp dẫn thế giới như Ngoại hạng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Pháp… Với khối lượng nội dung thông tin xuyên biên giới cung cấp vào Việt Nam, chuyên ngữ tiếng Việt không được xem xét kiểm soát về nội dung đặc biệt là các chương trình phát trực tiếp… sẽ là thách thức và khó khăn về quản lý, biên tập, biên dịch nội dung theo quy trình của Luật Báo chí, Luật Điện ảnh và các quy định pháp luật khác có liên quan".
Đại diện một thương hiệu truyền hình trả tiền khác là VNPayTV cũng cho biết thêm, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ Internet băng rộng toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh cả nước thực hiện giãn cách xã hội để phòng dịch bệnh Covid-19 vừa qua đã làm tăng đột biến nhu cầu thưởng thức thông tin, giải trí trên các dịch vụ truyền hình OTT của người dân. Chính vì vậy, một số dịch vụ OTT cung cấp từ nước ngoài vào Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh như: We TV, iQiYi, iFlix, Netflix, Apple TV+... và đe dọa lấn sân doanh nghiệp nội.
Cũng theo VNPayTV, các Đài phát thanh, truyền hình chủ lực cùng các đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền trong nước (SCTV, Viettel, FPT, VNPT, VTVcab, HTVC) sản xuất đầu tư sản xuất nội dung tuân thủ đầy đủ các quy trình về cấp phép, về kiểm duyệt, biên tập, biên dịch chặt chẽ theo quy định. Đồng thời làm tốt nghĩa vũ trích nộp ngân sách nhà nước, nộp các loại thuế, phí đầy đủ theo quy định mỗi năm hàng ngàn tỉ đồng. Thế nhưng, nhiều doanh nghiệp xuyên biên giới lại hoàn toàn chưa thực hiện nghĩa vụ thuế tại Việt Nam.
Sẽ truy thu thuế với doanh nghiệp xuyên biên giới Tính đến đầu năm 2020, Việt Nam có hàng trăm nghìn thuê bao trả phí sử dụng dịch vụ xem phim trực tuyến của Netflix. Người dùng phải trả từ 180.000đ đến 260.000đ mỗi tháng để sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, Netflix chưa từng thực hiện nghĩa vụ thuế tại Việt Nam. Theo ông Vũ Mạnh Cường, Vụ trưởng Thanh tra, kiểm tra (Tổng cục Thuế), Luật An ninh mạng đã có hiệu lực nên các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh có thu nhập tại Việt Nam từ hoạt động trên mạng Internet phải lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam. Đồng thời, họ phải có nghĩa vụ chuyển cho cơ quan thuế những dữ liệu này để quản lý thuế. Thời gian tới, Tổng cục Thuế sẽ tiếp tục củng cố hành lang pháp lý, phối hợp với ngân hàng thương mại, các bộ, ngành làm sạch cơ sở dữ liệu để quản lý thuế. Đồng thời, ngành thuế cũng đẩy mạnh thanh, kiểm tra đối với các cá nhân, tổ chức đã được tuyên truyền, hỗ trợ về phương tiện kê khai nhưng vẫn không tự giác nộp thuế. |