Lựa chọn mô hình tăng trưởng sao cho vừa thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống dân cư mà không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình, vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái là một trong những vấn đề cơ bản của nước ta hiện nay và trong phương hướng tới. Vấn đề này, Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng xác định định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới: “… kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh...”.
Cấp thiết đổi mới mô hình tăng trưởng
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là việc xác lập khung khổ chung, hay mô thức chung định hướng vận hành nền kinh tế trên cơ sở tối ưu hóa các nguồn lực của quốc gia với một cơ cấu nền kinh tế hợp lý, hiệu quả, hiện đại, nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao theo hướng phát triển bền vững.
Việc hình thành các mô hình tăng trưởng kinh tế tùy theo mức độ đóng góp khác nhau của các nhân tố tác động vào sự tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng kinh tế gồm: tăng trưởng theo chiều rộng, theo chiều sâu và kết hợp chiều rộng với chiều sâu.
Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động, phụ thuộc quá nhiều vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), năng suất lao động thấp, hiệu quả đầu tư không cao, nghĩa là chất lượng tăng trưởng thấp… là những điều dễ nhận thấy của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua. Mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong 30 năm đổi mới chủ yếu theo chiều rộng, đạt tốc độ trung bình khoảng 6% - 7%/năm, quy mô của nền kinh tế được mở rộng đáng kể, đã tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh, cao trong một thời gian nhất định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể... Tăng trưởng kinh tế đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển và bước vào các nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Song, nếu tiếp tục kéo dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng với định hướng xuất khẩu, nguồn lực tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên như thời gian qua, thì trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng và toàn diện như hiện nay đưa đến hệ quả là: chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; khi tài nguyên, lao động rẻ được khai thác quá mức thì động lực tăng trưởng, phát triển kinh tế sẽ không còn và Việt Nam sẽ rơi vào thời kỳ tăng trưởng thấp, dưới mức tiềm năng, hơn nữa khó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,… Điều đó, sẽ làm suy yếu khả năng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế; tăng trưởng kinh tế tác động xấu đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác cạn kiệt; đất nước vẫn ở trong tình trạng tụt hậu xa so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, mất nhiều thập kỷ vẫn không trở thành quốc gia phát triển (có GDP hơn 9.385 USD/người/năm và đạt các tiêu chí khác về phát triển công nghệ, kinh tế - xã hội).
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu là dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả, chất lượng của tăng trưởng, như: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP), hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, giảm chi phí sản xuất, chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao, trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế của đất nước. Tăng trưởng theo chiều sâu không chỉ nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, mà còn gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội...
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, khó có sự phân biệt rõ ràng tăng trưởng theo chiều rộng và tăng trưởng theo chiều sâu, mà chúng thường xen kẽ, kết hợp trong một chừng mực nhất định. Mô hình kết hợp giữa hai loại hình tăng trưởng này chú ý tới tăng trưởng kinh tế cả về số lượng và chất lượng. Điều quan trọng hơn, cần chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh; kết hợp có hiệu quả hai loại tăng trưởng trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh, chủ động hội nhập quốc tế.
Vì vậy, định hướng mô hình tăng trưởng như Văn kiện Đại hội XII của Đảng là hoàn toàn phù hợp xu thế phát triển của thời đại trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và đặc điểm nền kinh tế nước ta giai đoạn hiện nay. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng này nhằm vừa thúc đẩy kinh tế phát triển có hiệu quả, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình; vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Tăng trưởng kinh tế có thể được thúc đẩy bởi nhiều nhân tố. Tùy từng giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế, mà một hay một số nhân tố này sẽ nổi lên trở thành nhân tố then chốt, hay còn gọi là động lực của tăng trưởng. Vì vậy, muốn thành công trong đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải xác định những động lực tăng trưởng phù hợp cho từng thời kỳ. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định động lực cho tăng trưởng trong giai đoạn này là “…nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Cùng với đó là chuyển mạnh mô hình tăng trưởng từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu, đầu tư sang đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước.
Cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, bởi để thực hiện việc đổi mới mô hình tăng trưởng, phải cơ cấu lại nền kinh tế, nhằm khắc phục những khuyết tật, những hạn chế nảy sinh trong quá trình tăng trưởng; đồng thời xây dựng một cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu của mô hình tăng trưởng.
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là xác lập/định hướng, cách thức vận hành nền kinh tế để đạt các mục tiêu tăng trưởng, phát triển. Còn cơ cấu lại nền kinh tế là việc thực hiện hay hiện thực hóa cách thức vận hành nền kinh tế đã được lựa chọn. Trong điều kiện hiện nay, tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế phải là quá trình hiện thực hiệu quả ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường. Đây là những tư tưởng quan trọng nhất, cũng là những nét mới trong tư duy phát triển hiện đại.
Cơ cấu lại nền kinh tế phải vừa khai thác lợi thế cạnh tranh hiện có, vừa tạo điều kiện để hình thành và xây dựng các lợi thế cạnh tranh trong tương lai ở một số ngành của nền kinh tế. Cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hội nhập và định hướng xuất khẩu; kết nối được nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và toàn cầu; cải thiện vị thế của từng doanh nghiệp, từng ngành và cả nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời chú ý hơn đến nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới”.
Về tái cơ cấu đầu tư công, công việc trước hết phải làm là cắt giảm số lượng vốn và số dự án đầu tư công; thực hiện phân bổ vốn cho những dự án quan trọng ưu tiên, chủ yếu trong phát triển hạ tầng. Lựa chọn được dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao và tập trung vốn cho dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất; phải đổi mới được chế độ phân cấp đầu tư, nhất là trung ương - địa phương; buộc các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn và tổng công ty nhà nước phải có đổi mới và sáng tạo trong đầu tư theo hướng “đầu tư ít hơn, hiệu quả cao hơn”, hạn chế chạy theo số lượng đầu tư, số lượng dự án, ngăn chặn được “cơn khát đầu tư” như thời gian qua.
Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng đã và đang tập trung xử lý một số nội dung chính, gồm tái cơ cấu các ngân hàng thương mại yếu kém; xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và tái cơ cấu tổng thể, toàn diện cả hệ thống nói chung và từng tổ chức tín dụng nói riêng.
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tập trung vào các nhóm giải pháp: Xác lập và áp đặt đầy đủ nguyên tắc thị trường và chế độ chính sách cứng đối với DNNN, buộc các DNNN phải cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp ở khu vực khác; thiết lập, hoàn thiện khung quản trị theo thông lệ quốc tế phổ biến, nâng cao hiệu lực quản trị công ty đối với các doanh nghiệp nhà nước; tái cơ cấu danh mục đầu tư, ngành nghề kinh doanh, cổ phần hóa; thu hẹp quy mô hoạt động của các DNNN để DNNN tập trung vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, bao gồm: công nghiệp quốc phòng; các ngành công nghiệp độc quyền tự nhiên; các ngành, lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ thiết yếu; một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn…
Về cơ cấu lại nông nghiệp, trọng tâm là tái cơ cấu các chuỗi cung ứng nâng cao giá trị gia tăng nội địa, nhất là chuỗi cung ứng các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh như lúa gạo, cà-phê, cao-su, hạt tiêu, hạt điều, cá da trơn, tôm và các loại hải sản khác, các loại rau, quả nhiệt đới...
Tóm lại, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam sẽ phải tiến hành trong nhiều năm với không ít khó khăn, thách thức. Trong quá trình đó, bên cạnh những đổi mới, sáng tạo ở trong nước, cần học hỏi những kinh nghiệm, bài học thành công và thất bại trong tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở các nước khác.
PGS, TS Ngô Trí Long