Việt Nam sẵn sàng chung tay giảm phát thải khí nhà kính

03/11/2015 20:22
Theo dõi ICTVietnam trên

Để ứng phó với những hậu quả của biến đổi khí hậu (BĐKH) như nhiệt độ cao, nước biển dâng, gia tăng thiên tai, thay đổi cảnh quan, thiệt hại kinh tế,… cộng đồng quốc tế và Việt Nam đã chung tay bảo vệ và phát triển rừng, thông qua sáng kiến cung cấp hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển để giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ hệ thống khí hậu toàn cầu (REDD+).

Với 13,86 triệu ha rừng, dự tính Việt Nam có thể nhận được khoảng 80-100 triệu
USD mỗi năm từ việc bán quyền phát thải khí nhà kính cho các nước công nghiệp

Tác động của biến đổi khí hậu tới Việt Nam

BĐKH có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Các lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất là nông nghiệp, an ninh lương thực, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, năng lượng, giao thông vận tải, du lịch và y tế công cộng. Theo Văn phòng Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, trong giai đoạn 2001-2010, Việt Nam có 9.500 người chết và mất tích liên quan đến tác động của BĐKH. Thiệt hại kinh tế lên đến 1,5% GDP mỗi năm.

Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,5oC đến 0,7oC, mực nước biển tăng khoảng 20 cm; lượng mưa tăng trong mùa mưa và giảm vào mùa khô, nhiều bão lũ hơn; các đợt không khí lạnh ở miền bắc giảm từ 288 đợt trong giai đoạn 1971-1980 xuống 249 đợt giai đoạn 1991-2000; các luồng khí nóng xuất hiện nhiều hơn trong giai đoạn 1991-2000, đặc biệt là ở miền trung và miền nam.

Theo kịch bản BĐKH nước biển dâng ở Việt Nam, do Bộ Tài nguyên - Môi trường công bố năm 2012, thì với kịch bản phát thải trung bình, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình tăng từ 2oC đến 3oC trên hầu hết các khu vực trong cả nước. Riêng khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị có nhiệt độ trung bình tăng nhanh hơn so với những nơi khác. Nhiệt độ thấp nhất trung bình tăng từ 2,2oC đến 3oC, nhiệt độ cao nhất trung bình tăng từ 2oC đến 3,2oC, gây hiện tượng nắng nóng. Số ngày có nhiệt độ cao nhất trên 35oC tăng từ 15 - 30 ngày trên phần lớn diện tích cả nước.

Xu thế chung là lượng mưa mùa khô giảm và lương mưa mùa mưa tăng. Trung bình toàn Việt Nam, mực nước biển dâng trong khoảng từ 57cm - 73cm. Nếu mực nước biển dâng 1m, trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền trung có nguy cơ bị ngập, gần 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung bị ảnh hưởng trực tiếp.

Khu vực đổ bộ của các cơn bão và áp thấp nhiệt đới có xu hướng lùi dần về phía nam lãnh thổ nước ta, số lượng các cơn bão rất mạnh có xu hướng gia tăng, với mức độ ảnh hưởng mạnh lên, mùa bão có dấu hiệu kết thúc muộn hơn.

Cộng đồng quốc tế và Việt Nam ứng phó với BĐKH thông qua bảo vệ và phát triển rừng

Từ năm 2005, các quốc gia tỏ rõ sự quan tâm về mối liên hệ giữa tình trạng mất rừng và BĐKH. Tại cuộc họp Hội nghị các nước thành viên lần thứ 11 (COP11) của Công ước khung của Liên hợp quốc, khái niệm “Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng” (gọi tắt là REDD) lần đầu tiên được thảo luận. Đến COP13 tại Bali năm 2007, thêm ba hoạt động được giới thiệu để hình thành REDD là quản lý rừng bền vững, bảo tồn trữ lượng các-bon rừng và nâng cao trữ lượng các-bon rừng.

Một số chương trình song phương và đa phương đã được thiết lập để cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho việc sẵn sàng REDD , thí dụ như Chương trình hợp tác của Liên hợp quốc về giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng ở các nước đang phát triển (gọi tắt là Chương trình UN-REDD), Quỹ Đối tác các-bon trong Lâm nghiệp (FCPF) thông qua Ngân hàng Thế giới.

Ở Việt Nam, một loạt các chính sách, văn bản pháp luật, chương trình đã được xây dựng và triển khai thực hiện nhằm thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Cụ thể là Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với BĐKH, Chiến lược quốc gia về BĐKH và Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược Phát triển rừng quốc gia năm 2006, Kế hoạch phát triển và bảo vệ rừng quốc gia giai đoạn 2011-2020 và Chương trình Chi trả cho dịch vụ môi trường (Nghị định 99/NĐ-CP, 12/2010).

Việt Nam cũng tích cực tham gia Chương trình UN-REDD và FCPF vì REDD là một trong những biện pháp quan trọng để đạt được các mục tiêu chính sách nêu trên. Năm 2012, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch hành động về REDD quốc gia giai đoạn 2011-2020 (Quyết định 799/QĐ-TTg). Kế hoạch hành động REDD quốc gia được coi là một trong những tài liệu quan trọng nhất trong việc thực hiện REDD và nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu ở Việt Nam.

GS-TS Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng hướng dẫn phương pháp đo đạc sinh khối rừng và tính lượng các bon hấp thụ cho khu rừng lim ở xóm Bái Yên, xã Dân Chủ, tỉnh Hòa Bình.

Việt Nam là một trong 19 nước thực hiện Chương trình REDD đã nhận tài trợ từ Quỹ đối tác các-bon toàn cầu, với tổng số tiền tài trợ 830 triệu USD, do các nước phát triển đóng góp. GS. TS Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng cho biết, Việt Nam thực hiện REDD theo nhiều giai đoạn. Từ năm 2016 - 2020, Việt Nam sẽ chính thức triển khai thực hiện REDD trên cả nước để bán quyền phát thải khí nhà kính cho các nước phát triển.

Theo đó, các nước phát triển sẽ chi trả cho các hoạt động trồng rừng để hấp thụ khí CO2 thông qua các thông số kỹ thuật đo đạc được. Hiện nay, Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng đã tìm ra phương pháp đo đạc sinh khối rừng và tính được lượng các-bon hấp thụ cho các khu rừng, làm cơ sở cho việc chi trả tiền REDD cho các chủ rừng. Phương pháp này đã được quốc tế công nhận.

Mục đích chính của REDD là nhằm giảm thiểu BĐKH toàn cầu. REDD cũng có tiềm năng mang lại các lợi ích về môi trường, xã hội cho các quốc gia tham gia thực hiện.

Theo GS. TS Võ Đại Hải, Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, trong giai đoạn 2008-2015, Chương trình UN-REDD đã tài trợ 246 triệu USD cho 56 quốc gia thực hiện REDD trên thế giới, trong đó, Việt Nam nhận được 30 triệu USD cho thực hiện pha 2 của chương trình.

Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn hỗ trợ sẵn sàng thực hiện sang giai đoạn thực thi REDD - giai đoạn tiến hành mua bán quyền phát thải khí nhà kính. Với 13,86 triệu ha rừng, dự tính Việt Nam có thể nhận được khoảng 80-100 triệu USD mỗi năm từ việc bán quyền phát thải khí nhà kính cho các nước công nghiệp, gấp từ ba đến bốn lần vốn ODA cho lâm nghiệp hiện nay và hứa hẹn là khoản thu nhập đáng kể cho nghề rừng nói chung và các chủ rừng trồng và bảo vệ rừng nói riêng.

REDD có thể đem lại những lợi ích môi trường và xã hội nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro về môi trường xã hội nếu các chương trình REDD khi thiết kế chỉ tập trung vào các mục tiêu giảm phát thải.

TS. Hoàng Liên Sơn, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã chỉ ra một số rủi ro tiềm ẩn khi triển khai REDD đối với người dân địa phương như việc chuyển đổi rừng tự nhiên sang rừng trồng và các mục đích sử dụng đất khác có giá trị đa dạng sinh học và khả năng phục hồi thấp. Bên cạnh đó, các dân tộc và cộng đồng thiểu số sống phụ thuộc vào rừng buộc phải di rời khỏi nơi sinh sống theo tập tục của họ.

TS. Sơn cho rằng, việc trồng rừng phục vụ cho REDD cũng có thể làm xói mòn hay mất quyền do không được sử dụng đất đai, lãnh thổ hay tài nguyên; mất kiến thức về sinh thái; mất đời sống nông thôn truyền thống; mất công bằng xã hội khi phân chia quyền lợi, những người khá giả sẽ nắm bắt quyền phân bổ lợi ích từ REDD cũng như mất quyền hay hạn chế quyền tiếp cận các sản phẩm rừng có vài trò quan trọng trong đời sống của người dân địa phương.

Quá trình thực hiện REDD không bài bản có thể tạo ra khuôn khổ chính sách quốc gia chồng chéo và cản trở lẫn nhau, những lợi ích khác của rừng bị đánh đổi để tối đa hóa lợi ích các-bon và xung đột giữa con người và động vật hoang dã vì bảo vệ rừng tốt hơn sẽ làm tăng số lượng động vật phá hại cây trồng, ông Sơn cho biết.

Nhằm hạn chế những rủi ro nêu trên, việc triển khai REDD cần được thiết kế nhằm không chỉ tập trung vào những mục tiêu giảm phát thải mà đồng thời có thể hỗ trợ phát triển sinh kế bền vững, tăng cường các giá trị đa dạng sinh học và những lợi ích của hệ sinh thái, thúc đẩy phát triển bền vững, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
  • Việt Nam - Malaysia nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện
    Phát biểu tại họp báo, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Việt Nam-Malaysia tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực mới (như kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, năng lượng xanh...).
  • Chìa khóa giải quyết thách thức trong bảo vệ trẻ em trên không gian mạng
    Trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương nhất, đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ. Đây không chỉ là bài toán của riêng Việt Nam mà còn là thách thức toàn cầu đòi hỏi sự chung tay hợp tác từ nhiều phía.
  • Việt Nam đang đối mặt 3 thách thức an toàn thông tin
    Các cuộc tấn công mạng hiện nay ngày càng tinh vi và phức tạp hơn, đặc biệt khi có sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, việc kết hợp công nghệ này với trí tuệ của con người đã giúp phát hiện và phòng, chống tấn công mạng hiệu quả hơn.
  • Chuyển đổi số thành công không thể thiếu “niềm tin số”
    Muốn triển khai hiệu quả chiến lược số hóa quốc gia cần triển khai theo hướng tiếp cận từ trên xuống dưới và phải phù hợp với thực tế, đảm bảo có tầm nhìn rộng trong tương lai.
  • Việt Nam - Hàn Quốc đồng hành trong kỷ nguyên AI
    Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm hy vọng, Việt Nam có thể học tập nhiều hơn từ Hàn Quốc về các bài học kinh nghiệm, cách làm hay để phát huy tối đa vai trò công nghệ số nói chung và trợ lý ảo nói riêng trong hoạt động của cơ quan nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo lập xã hội số nhân văn và thu hẹp khoảng cách số.
Đừng bỏ lỡ
  • Bốn giải pháp trọng tâm để giải bài toán an toàn dữ liệu quốc gia
    Theo Thứ trưởng Bộ TT&TT Bùi Hoàng Phương, năm 2024 đánh dấu bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong lĩnh vực an toàn thông tin. Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức cần vượt qua để đảm bảo an toàn dữ liệu quốc gia.
  • Việt Nam tăng cường hợp tác phát triển công nghệ số với Burundi và NIPA
    Trong khuôn khổ sự kiện Tuần lễ Số quốc tế 2024, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã tiếp và làm việc với Bộ trưởng Bộ Truyền thông, Công nghệ Thông tin và Đa phương tiện Burundi Léocadie Ndacayisaba và ông Hur Sung Wook, Chủ tịch Cục Xúc tiến Công nghiệp CNTT quốc gia Hàn Quốc (NIPA).
  • Chính thức ra mắt Nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin
    Nền tảng hướng tới nâng cao chất lượng và điều phối hiệu quả các hoạt động diễn tập trên toàn quốc thông qua nền tảng hỗ trợ diễn tập thực chiến an toàn thông tin.
  • Robot Delta hữu dụng trong nhiều ngành
    Nhờ vào thiết kế độc đáo và khả năng hoạt động với tốc độ và độ chính xác cao, robot Delta là một giải pháp tối ưu trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại.
  • Cà Mau ứng dụng các phần mềm chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp
    Ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau đã không ngừng triển khai các giải pháp chuyển đổi số thông qua việc sử dụng các phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ quản lý, điều hành. Trong tương lai không xa, các phần mềm này sẽ hoàn thiện và bắt kịp xu hướng công nghệ để hỗ trợ người nông dân nhiều hơn trong việc tăng gia sản xuất.
  • Bảo vệ các hệ thống mạng trọng yếu là cấp thiết
    Song song với tiến trình chuyển đổi số, các chiến dịch tấn công mạng, gián điệp và khủng bố mạng nhằm vào hệ thống công nghệ thông tin (IT) và công nghệ vận hành (OT) trọng yếu ngày càng gia tăng, việc đảm bảo an ninh mạng trở thành ưu tiên hàng đầu của các quốc gia.
  • ‏OPPO Find X8 Series sẽ chính thức lên kệ ngày 7/12‏
    Ngày 21/11, OPPO chính thức ra mắt Find X8 Series‏‏ tại Việt Nam và sẽ lên kệ ngày 7/12 tới. Đây là lần đầu tiên người dùng Việt Nam được trải nghiệm dòng flagship cao cấp nhất của OPPO cùng lúc với toàn cầu. ‏
  • Chuyển đổi số từ thực tiễn Báo Hải Dương
    Báo Hải Dương có nhiều thuận lợi khi thực hiện chuyển đổi số. Đó là Ban Biên tập có quyết tâm cao. Đội ngũ cán bộ, phóng viên, nhân viên của báo nhanh nhạy với cái mới, ham học hỏi...
  • Đưa siêu ứng dụng "Công dân Thủ đô số - iHanoi" vào cuộc sống
    “Công dân Thủ đô số” - iHaNoi là kênh tương tác trực tuyến trên môi trường số giữa người dân, doanh nghiệp với các cấp chính quyền thành phố Hà Nội. Qua ứng dụng này, người dân và doanh nghiệp có thể phản ánh các vấn đề đời sống, từ đó giúp chính quyền tiếp nhận và giải quyết kịp thời.
  • Sự gia tăng của ứng dụng AI tạo sinh: Những rủi ro tiềm ẩn cho xã hội và con người
    AI tạo sinh là một trong những thành tựu công nghệ mới nhất của con người trong thập niên 20 của thế kỷ XXI. Cho đến nay, sự ứng dụng của AI tạo sinh đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận quan trọng trong các nghiên cứu xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học. AI tạo sinh đã thách thức nhiều khái niệm và định kiến của chúng ta về bản thân mình, đặc biệt là về cách chúng ta hiểu về tư duy và bản chất của tư duy con người.
Việt Nam sẵn sàng chung tay giảm phát thải khí nhà kính
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO