Các giải pháp nhằm giảm cước dịch vụ chuyển vùng quốc tế (P2)

03/11/2015 20:49
Theo dõi ICTVietnam trên

Mặc dù có nhiều giải pháp kỹ thuật gần như có thể thay thế dịch vụ chuyển vùng quốc tế, nhưng chúng chỉ hữu dụng cho những người di chuyển có kinh nghiệm hoặc có hiểu biết về vấn đề chuyển vùng và giá cước liên quan. Các công nghệ này không đủ để tạo ra sự cạnh tranh trong thị trường và làm thay đổi hệ thống tính cước đã có.

GIẢI PHÁP KINH DOANH NHẰM GIẢM CƯỚC IMRS

Các nhà khai thác di động châu Phi là người dẫn đầu trong việc miễn, giảm cước chuyển vùng di động quốc tế trong mạng Zain (trước đây gọi là Celtel). Năm 2006, One Network miễn cước chuyển vùng cho khách hàng của mình ở Kenya, Tanzania và Uganda (khách hàng chỉ phải trả cước nội địa cho các cuộc gọi đi khi chuyển vùng và không phải trả cước các cuộc gọi đến). One Network được mở rộng trong năm 2007 và bao phủ thêm 6 nước nữa ở châu Phi. Đến cuối 2007, Zain cho rằng One Network đã phục vụ "400 triệu người trên 12 quốc gia hiện được kết nối khắp châu Phi trong một mạng di động không biên giới bao phủ một vùng rộng gấp hơn 2 lần diện tích châu Âu". 

Thực tế là Zain có giấy phép ở các quốc gia liền kề là yếu tố quan trọng để hỗ trợ phát triển One Network như là việc tự do hóa các cổng quốc tế ở các quốc gia mà Zain hoạt động. Các thuê bao của One Network có thể thực hiện cuộc gọi về quốc gia quê hương mình và gửi SMS ở mức cước chấp nhận được tại nước đến thăm và nhận cuộc gọi đến từ nước mình miễn phí. Tuy nhiên, việc giảm cước chuyển vùng chỉ áp dụng cho lưu lượng được thuê bởi mạng Zain (các cuộc gọi on-net). Dù sao, sự mở rộng nhanh chóng của công ty này khắp lục địa châu Phi đã đem lại lợi ích đáng kể cho khách hàng.

Bằng cách cạnh tranh đột phá, Zain đã khiến cho các nhà khai thác châu Phi khác phải tính cước IMES rẻ hơn cho các nước láng giềng hay cho nước mà họ có vùng phủ sóng. Ví dụ, tháng 5/2012, Glo đã cung cấp dịch vụ chuyển vùng (UniWorld) có mức cước như nội địa cho các thuê bao trả trước và trả sau ở Nigeria, Benin và Ghana. Orange đã tạo ra một khu vực các nước Tây Phi vào năm 2007, bao gồm Guinea, Guinea Bissau, Ivory Coast, Mali và Senegal và Vodacom cung cấp chuyển vùng trong 6 nước châu Phi với cuộc gọi đến miễn phí IMES và các cuộc gọi đi được tính cước bằng mức giá của nước đến thăm. Trái với ở châu Âu, nhiều công ty có vùng phủ sóng xuyên biên giới nhưng chỉ giảm mà không bao giờ miễn cước.

Digicel là một công ty năng động trong số các nước vùng Caribe cung cấp dịch vụ vào năm 2011, với 27 USD có 7 ngày chuyển vùng không giói hạn trên mạng của Digicel bao gồm các cuộc gọi đến, không hạn chế các cuộc gọi về quốc gia quê hương, nhắn tin không hạn chế đến các số của Digicel và truy nhập dữ liệu không hạn chế. PCCW (Hồng Kông) cung cấp "Giấy thông hành tất cả trong một cho chuyển vùng (dùng trong 1 ngày) cho 53 quốc gia. Đặc biệt, KDDI của Nhật Bản cung cấp một gói hạn chế cho khách hàng của mình bằng cách cung cấp truy nhập Wi-Fi cho các điện thoại thông minh trên khắp 100 quốc gia.

Các nhà khai thác ở Khu vực kinh tế châu Âu đã giảm cước IMRS do EU áp dụng giá trần và cung cấp các gói dịch vụ mới dành riêng cho chuyển vùng. T-Mobile ở Anh cũng cung cấp tùy chọn chuyển vùng hạn chế dữ liệu. Dịch vụ này cung cấp cho người dùng một mức dữ liệu cố định khi chuyển vùng và sẽ ngắt kết nối dữ liệu khi thuê bao đạt mức giới hạn. ở các công ty khu vực như Telefone, người ta đã cung cấp gói cước chuyển vùng dữ liệu pan-European chuẩn. Các khách hàng có điện thoại thông minh giờ đây có thể sử dụng 25MB truy nhập Internet khắp mọi nơi trong 27 thành viên liên minh châu Âu với giá 2 EUR/ngày. Giá cước này nhắm tới các khách hàng di động trên mạng Movistar hoặc O2.

Gói cước Pan-European được triển khai ở Đức vào tháng 5/2012, có hiệu lực cho các khách hàng của O2và Movistar ở Tây Ban Nha, Anh, Ireland, Cộng hòa Séc và Slovakia. Vodafone (Anh) cũng cung cấp dịch vụ từ năm 2012 cho phép khách hàng dùng gói cước UK chuẩn với chi phí trả thêm 3 bảng Anh/ ngày. Mọi chi phí vượt quá cũng sẽ được tính tiếp nếu người sử dụng ở Anh. Trái lại, Meteor (Ireland) bỏ cước chuyển vùng trong châu Âu, cho phép khách hàng thanh toán cùng một mức cước cho các cuộc gọi và nhắn tin khi họ ở nhà. T-Mobile (Mỹ), tận dụng lợi thế vùng phủ châu Âu của mình cũng như giá cước chuyển vùng dữ liệu thấp hơn ở châu Âu đã cung cấp cho các khách hàng kinh doanh người Mỹ gói chuyển vùng dữ liệu không giới hạn với giá 50 USD/tháng.

Ở một số nơi, các nhà khai thác di động đã giảm cước do sức ép của cơ quan quản lý. Ví dụ, Etisalat đã giảm cước gọi cho khách hàng UAE di chuyển trong các nước cộng đồng Gulf (GCC) khoảng 26% so với đầu năm 2012 do yêu cầu của các quan chức GCC đối với các nhà khai thác mạng di động (MNO) khu vực. Vào tháng 4/2011, Singapore và Malaysia công bố kế hoạch giảm cước chuyển vùng (lên đến 30% cho thoại và 50% cho SMS), Singapore và Brunei cũng bắt đầu giảm cước chuyển vùng từ năm 2013.

Vào tháng 5/2012, China Telecom đã bắt đầu cung cấp dịch vụ trả trước mới bằng cách triển khai mạng di động ảo ở Anh (CTExcelbiz), cung cấp các gói trả trước cho các khách hàng của China Telecom ở Anh. Dịch vụ này cũng cung cấp một số điện thoại Trung Quốc mà bạn bè và gia đình ở Trung Quốc có thể sử dụng để gọi một thuê bao của China Telecom đang ở Anh. Giá cước chuyển vùng dữ liệu của China Mobile đối với khách hàng của mình khi họ ở Mỹ là khoảng 1,5 USD/MB, thấp hơn nhiều so với các nhà khai thác Mỹ cung cấp cho khách hàng của họ khi di chuyển đến Trung Quốc. Công ty này cũng cho thấy tiềm năng trở thành một nhà khai thác mạng di động ảo (MVNO) ở Mỹ cũng như Pháp và Anh.

MTN (Nam Phi), vào tháng 3/2011, đã bắt đầu cung cấp các cuộc gọi đến và nhắn tin miễn phí cho cả các khách hàng trả trước và trả sau di chuyển trong khu vực Nam và Đông Phi (SEA) (những nước mà MTN có triển khai dịch vụ). Tele2 (Thụy Điển) đang tiếp thị một ứng dụng VoIP cho phép khách hàng gọi đi và nhận cuộc gọi ngoài Thụy Điển với mức giá như cuộc gọi điện thoại di động thông thường.

Quyết tâm chính trị cũng như sự quan tâm của giới truyền thông đối với vấn đề giảm cước IMRS đã đóng một vai trò quan trọng trong nhiều khu vực để giảm giá cước bán lẻ. Bài học từ Zain và các khu vực khác là giá cước thấp hơn có thể thực hiện được khi một nhà khai thác mạng đã tiếp cận thị trường nước ngoài. Trong trường hợp này, truy nhập đã sẵn có vì các công ty này đã có giấy phép MNO. Do đó, tùy chọn MVNO đã khuyến cáo trước đây là cần thiết.

SÁNG KIẾN SONG PHƯƠNG

Có nhiều sáng kiến song phương đã được thực hiện để giảm cước chuyển vùng xuyên biên giới, thường được thực hiện giữa các nước láng giềng có thương mại, du lịch và quan hệ người dân gần gũi. Trong nhiều trường hợp, thỏa thuận kiểu này nhằm giảm cước IMRS được quyết định ở mức chính trị nhưng vẫn cần các qui định pháp lý để các nhà quản lý có thể triển khai thực hiện. Trong một số trường hợp, yêu cầu chính trị đối với những trở ngại giữa 2 nước liên quan có thể đủ làm giảm giá cước. Để thỏa thuận song phương hiệu quả cần thực hiện một số yêu cầu, bao gồm phương pháp được dùng để giảm giá cước và quyết định tác động đến chỉ giá bán sỉ hay cả giá bán sỉ và bán lẻ. Quyết định thực hiện ngay việc giảm giá cước hay có lộ trình và dựa trên mô hình chi phí hay thỏa thuận theo lộ trình. Sự phối hợp tốt giữa các nhà quản lý của hai nước cũng là cần thiết. Cũng cần phải xác định xem các công cụ cấu trúc sẽ được thực hiện như thế nào để đảm bảo rằng thỏa thuận song phương sẽ đưa tới sự cạnh tranh về lâu dài.

Để có một thỏa thuận song phương hiệu quả, yêu cầu quốc gia A phải quy định MNO giảm giá cước khởi phát và kết cuối mà MNO của quốc gia B phải trả nếu mức cước này cũng được giảm cho MNO của quốc gia A. Không nhất thiết phải có thỏa thuận song phương tương tự về giá cước bán lẻ của IMRS. Khi cước bán sỉ giảm, giá cước bán lẻ cũng sẽ giảm. Giá cước bán sỉ phải là tương đương trừ khi có sự khác biệt về giá thành giữa 2 quốc gia.

KẾT LUẬN

Mặc dù có nhiều giải pháp kỹ thuật gần như có thể thay thế dịch vụ chuyển vùng quốc tế, nhưng chúng chỉ hữu dụng cho những người di chuyển có kinh nghiệm hoặc có hiểu biết về vấn đề chuyển vùng và giá cước liên quan. Các công nghệ này không đủ để tạo ra sự cạnh tranh trong thị trường và làm thay đổi hệ thống tính cước đã có. Để cạnh tranh, cần phải mở cửa các thị trường quốc gia, cho phép các nhà cung cấp dịch vụ quốc gia tiếp cận trực tiếp thị trường quốc tế để họ có thể kết cuối các cuộc gọi xuyên biên giới mà vẫn ở mức cước nội bộ mạng của mình.

Sự phát triển công nghệ và phương án kinh doanh cho phép chuyển vùng trực tiếp tới mạng ở nước đến thăm. Điều này cho phép nhà khai thác mạng di động có một số quan hệ hợp tác chi nhánh với các nhà khai thác nước ngoài để giảm giá bán lẻ. Tuy nhiên, các công nghệ chuyển lưu lượng trực tiếp như vậy cũng tạo ra nhiều khó khăn cho các nhà khai thác MNO nhỏ cạnh tranh trong thị trường IMRS. Một sự phát triển thị trường khác đóng vai trò lớn làm giảm giá cước IMRS bán lẻ đó là chính sách giá cước on-net. Các MNO có vùng phủ sóng quốc gia rộng cung cấp giá cước chuyển vùng tốt hơn. Ngoài ra, việc triển khai các thỏa thuận song phương cũng là biện pháp hiệu quả làm giảm đáng kể cước chuyển vùng quốc tế.

Tài liệu tham khảo

[1].NGUYỄN QUANG HƯNG, Những thách thức đối với công tác quán lý giá cước dịch vụ chuyển vùng di động quốc tế, Tạp chí CNTT&TT, tháng 3/2014.
[2].DIMITRI YPSILANTI, Intemamtional Mobile Roaming Servtes: A Review of Best Practice Polocies, ITU - GSR 2012.
[3]. GSMA, Roaming Services in Latin America, Market and technical Approach, IIRSA Workshop, Bogota.\

Nguyễn Quang Hưng

Nổi bật Tạp chí Thông tin & Truyền thông
Đừng bỏ lỡ
  • Xây dựng hạ tầng cho mạng 5G tương lai của Việt Nam
    Đông Nam Á là một trong những khu vực có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới. Dự kiến tới năm 2030, ASEAN (gồm 10 quốc gia Đông Nam Á) sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ tư toàn cầu. Phần lớn động lực thúc đẩy sự phát triển này đến từ sự vận động và tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế số trong khu vực, với giá trị ước tính lên đến gần 1 nghìn tỉ đô-la vào năm 2030.
  • Hai nền tảng số MISA được công nhận là sản phẩm Thương hiệu quốc gia Việt Nam 2024
    Vượt qua hơn 1.000 hồ sơ và nhiều vòng thẩm định khắt khe, MISA có hai nền tảng số đạt danh hiệu Thương hiệu quốc gia Việt Nam 2024.
  • Sản phẩm, dịch vụ của VinaPhone được công nhận là Thương hiệu Quốc gia
    Tại lễ công bố sản phẩm đạt Thương hiệu Quốc gia Việt Nam năm 2024 do Bộ Công Thương tổ chức, sản phẩm, dịch vụ VinaPhone 5G, Truyền hình MyTV, chứng thực ký số công cộng (VNPT CA)... của VNPT VinaPhone đã được công nhận là Thương hiệu Quốc gia 2024.
  • GHTK được vinh danh Thương hiệu Quốc gia Việt Nam lần thứ hai
    Công ty CP Giao hàng Tiết Kiệm tự hào là một trong 190 doanh nghiệp tiêu biểu, đạt danh hiệu Thương hiệu Quốc gia Việt Nam năm 2024 trong số hơn 1.000 doanh nghiệp đăng ký.
  • Cuộc đua trung tâm dữ liệu AI tại Đông Nam Á
    Trí tuệ nhân tạo (AI) đã trở thành một động lực chính thúc đẩy đổi mới công nghệ toàn cầu và Đông Nam Á đang ngày càng khẳng định vai trò của mình trong cuộc đua phát triển AI. Hàng loạt các hãng công nghệ và đám mây lớn đã thông báo kế hoạch xây dựng, vận hành trung tâm dữ liệu mới tại Đông Nam Á.
  • Mở rộng trông xe không dùng tiền mặt mang lại lợi ích "kép"
    Việc áp dụng hình thức thanh toán qua ứng dụng thu phí không dừng VETC và mã QR vào hoạt động thanh toán phí gửi xe không dùng tiền mặt không những góp phần từng bước hình thành hệ thống giao thông thông minh mà còn tăng cường công tác quản lý nhà nước, minh bạch trong công tác thu phí dịch vụ trông giữ xe.
  • MobiFone được vinh danh Thương hiệu quốc gia Việt Nam 2024
    Tại Lễ công bố sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 tối 4/11, MobiFone xuất sắc được vinh danh tại sự kiện với 5 thương hiệu sản phẩm đột phá bao gồm: Dịch vụ viễn thông MobiFone, mobiEdu, ClipTV, mobiAgri và nền tảng số MobiFone.
  • 10 xu hướng định hình tương lai của quản lý giao dịch số
    Quản lý giao dịch số đang phát triển mạnh mẽ, được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ và nhu cầu ngày càng tăng về xử lý tài liệu an toàn, hiệu quả. Đây là công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp giảm bớt thủ tục hành chính và tối ưu hóa quy trình xử lý tài liệu số.
  • Zalo giữ vững ngôi đầu nền tảng nhắn tin được yêu thích nhất
    Ngày 5/11, theo báo cáo “The Connected Consumer Q.III/2024” mới nhất do Decision Lab công bố, Zalo tiếp tục dẫn đầu các nền tảng nhắn tin tại Việt Nam về tỷ lệ sử dụng (renetration rate) và mức độ yêu thích (preference rate).
  • Triển vọng thị trường chữ ký số toàn cầu
    Thị trường chữ ký số toàn cầu đang có ​​sự tăng trưởng chưa từng có khi các doanh nghiệp và cá nhân ngày càng áp dụng các giải pháp số để xác thực tài liệu và giao dịch an toàn.
Các giải pháp nhằm giảm cước dịch vụ chuyển vùng quốc tế (P2)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO