Chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn: xây dựng nông thôn phát triển toàn diện, bền vững
Phát triển ngành nghề nông thôn (NNNT) là một yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của kinh tế-xã hội (KT-XH). Việt Nam đã đưa ra các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện và bền vững của NNNT.
NNNT đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển KT-XH của một quốc gia. Trong nhiều năm qua, nhiều nước trên thế giới đã chú trọng đầu tư và phát triển NNNT để tạo ra sự thay đổi tích cực và bền vững. Việt Nam, với nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn mạnh mẽ, đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển NNNT và đã đưa ra các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện và bền vững của ngành này.
Thu nhập bình quân lao động trong các hoạt động NNNT sẽ gấp 2,5 - 3 lần
Vừa qua, Chiến lược phát triển NNNT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Phó Thủ tướng chính phủ Trần Lưu Quang ký theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 14/9/2023. Theo đó, các NNNT được định hướng phát triển phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, từ đó góp phần xây dựng nông thôn phát triển toàn diện, bền vững. Việt Nam coi hoạt động NNNT là lĩnh vực nhiều tiềm năng, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, đóng góp cho phát triển KT-XH.
Chiến lược đã đặt ra các mục tiêu cụ thể như đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng của nhóm NNNT sẽ đạt khoảng 6 - 7%/năm; thu nhập bình quân lao động trong các hoạt động NNNT sẽ gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng NNNT đạt trên 6,0 tỷ USD/năm. Về nguồn nhân lực, cần thu hút được khoảng 5 triệu lao động thường xuyên trong các hoạt động NNNT; Tỷ lệ lao động qua đào tạo khu vực NNNT là 80% và tỷ lệ được cấp bằng, chứng chỉ đạt 35%. Ngoài ra, Chiếc lược đặt ra mục tiêu hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, ổn định đáp ứng 70% nhu cầu phát triển NNNT.
Tầm nhìn đến năm 2045, NNNT sẽ tiếp tục là hoạt động mang lại thu nhập, tạo việc làm cho lao động ở nông thôn, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân. NNNT sẽ phát triển theo hướng bền vững, thông minh, thân thiện với môi trường, gắn với xây dựng không gian nông thôn xanh, sạch, đẹp; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử và truyền thống của vùng, miền.
Các giải pháp chủ yếu phát triển NNNT
Chiến lược phát triển NNNT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ các giải pháp chủ yếu để phát triển NNNT.
Thứ nhất là hoàn thiện thể chế, chính sách. Theo đó, để mang lại sự phát triển bền vững cho các NNNT, các cơ quan, đơn vị, ban ngành cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phát triển NNNT, tập trung các chính sách về đất đai, đầu tư, bảo hiểm, tín dụng, tổ chức sản xuất, xúc tiến thương mại.
Ngoài ra, cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư vào NNNT; ưu tiên thu hút đầu tư phát triển dịch vụ, cơ sở hạ tầng, logistics và các công nghiệp phụ trợ phục vụ sản xuất, kinh doanh NNNT.
Thứ hai, tổ chức lại sản xuất và hình thành các trung tâm sáng tạo, tăng cường mô hình liên kết giữa doanh nghiệp - hợp tác xã - người dân, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo, nòng cốt, dẫn dắt, hợp tác xã là trung gian giữa doanh nghiệp và người dân. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội xây dựng các trung tâm sáng tạo, chương trình khởi nghiệp của hoạt động NNNT; ứng dụng máy móc, thiết bị công nghệ và hỗ trợ cải tạo, nâng cấp cơ sở sản xuất, kinh doanh NNNT; đẩy mạnh xây dựng thương hiệu, sở hữu trí tuệ, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm NNNT, làng nghề; đầu tư cụm công nghiệp làng nghề phù hợp với quy hoạch và điều kiện của địa phương; chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics trong các làng nghề.
Thứ ba, bảo vệ môi trường gắn với phát triển du lịch nông thôn. Vì vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, làng nghề truyền thống cần được tập trung xử lý, kiên quyết di dời cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào các cụm công nghiệp.
Để bảo vệ môi trường, các làng nghề được khuyến khích sử dụng nguyên liệu tái tạo, thân thiện môi trường và tận dụng các phế phụ phẩm của nguyên liệu làm đầu vào cho các sản phẩm khác. Các hoạt động như xây dựng mô hình phát triển du lịch làng nghề, du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái mang tính đặc trưng vùng, miền cần được đẩy mạnh. Tổ chức lễ hội truyền thống, hội thi quảng bá, giới thiệu những nét đặc sắc văn hoá của sản phẩm làng nghề; tôn vinh các nghệ nhân, thợ giỏi làm cơ sở xem xét phong tặng, công nhận nghệ nhân.
Thứ tư, xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung. Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn, có chứng chỉ bền vững, phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng trong vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất, khai thác, sơ chế, chế biến; nghiên cứu, chọn tạo, công nhận chuyển giao các loại giống mới, năng suất cao, đảm bảo chất lượng.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý, chuyển đổi số cho doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực NNNT; đào tạo nâng cao tay nghề; bổ sung các kiến thức về khoa học công nghệ, quy trình sản xuất, công nghệ thông tin, thiết kế, đổi mới mẫu mã sản phẩm cho người lao động. Ưu tiên đào tạo lao động tại doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất, vùng nguyên liệu tập trung, cụm công nghiệp; xây dựng mô hình liên kết đào tạo giữa các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất trong lĩnh vực NNNT; đào tạo nâng cao nghề, chuyển đổi một bộ phận lao động nông nghiệp sang các hoạt động NNNT.
Thứ sáu, phát triển thị trường và hội nhập quốc tế, khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất đưa các sản phẩm lên hệ thống phân phối, trung tâm thương mại, siêu thị, điểm du lịch, kênh thương mại điện tử; xây dựng hệ thống thông tin, nâng cao năng lực dự báo thị trường sản phẩm NNNT; hỗ trợ năng lực tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp, hợp tác xã và cơ sở sản xuất gắn với các chương trình xúc tiến thương mại; mở rộng hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, nhất là công nghệ về thiết kế mẫu mã, chế biến, bảo quản, công nghệ giống, công nghệ môi trường, tái sử dụng phụ phẩm.
Thứ bảy, nâng cao vai trò các hiệp hội NNNT, phát huy vai trò các hiệp hội nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan chức năng trong đàm phán, mở cửa thị trường; giải quyết và tháo gỡ hàng rào kỹ thuật, các tranh chấp pháp lý quốc tế; nâng cao vị thế, vai trò của hiệp hội trong tiếp nhận, triển khai, phản biện, xây dựng và thực thi chính sách của Nhà nước.
Thứ tám, truyền thông và nâng cao nhận thức; tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền và người dân về vai trò, tầm quan trọng của phát triển NNNT trong phát triển KT-XH; đa dạng hình thức truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội cho cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân.
Phát triển NNNT là một yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của KT-XH. Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngành này và đã đưa ra các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện và bền vững của NNNT. Qua việc nâng cao hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng nông sản, phát triển các ngành nghề liên quan, tạo điều kiện và hỗ trợ cho doanh nghiệp nông thôn, và tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, chúng ta có thể đạt được sự phát triển bền vững cho NNNT và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.