Chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước động lực chính để tăng trưởng kinh tế
Việc phát triển hạ tầng số, lực lượng lao động có kỹ năng số, đẩy mạnh công tác nghiên cứu công nghệ số mới và xây dựng môi trường pháp lý an toàn, tin cậy là yếu tố cốt lõi bảo đảm chuyển đổi số thành công. Hiện nay nhà nước đang tập trung kiến tạo, xây dựng các yếu tố bảo đảm cho công cuộc chuyển đổi số thành công theo tinh thần của chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Động lực để chuyển đổi số thành công
Chuyển đổi số là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Trong đó quá trình sử dụng các công nghệ số ứng dụng vào đời sống xã hội tác động làm thay đổi tổng thể và toàn diện cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất của cá nhân, tổ chức.
Hiện nay, chuyển đổi số là một xu thế trên toàn cầu, có tác động vô cùng sâu rộng lên các lĩnh vực của nền kinh tế – chính trị – xã hội. Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi số trên 3 trụ cột chính: Phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, trong đó chính phủ số là một cấu thành quan trọng của chiến lược chuyển đổi số quốc gia, bên cạnh kinh tế số và xã hội số. Chính phủ số có sứ mệnh dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, do vậy phải đi trước, đi đầu và tạo không gian phát triển cho kinh tế số, xã hội số.
Để thực hiện tốt chương trình chuyển đổi số quốc gia không chỉ có chiến lược và sự chỉ đạo đúng đắn từ Chính phủ. Cùng với đó là sự vào cuộc của các ban, ngành các cấp, lãnh đạo các địa phương cùng chung tay giúp toàn dân thực hiện số hóa, đem lại đời sống ấm no, hiện đại hơn.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định: “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế” là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Nhằm hiện thực quá sự quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước với khát vọng lớn, tầm nhìn chiến lược, tư duy đột phá, tận dụng tối đa thời cơ, thuận lợi do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại để thực hiện chuyển đổi số quốc gia thành công. Điều này giúp tăng cường hiệu quả trong quản lý Nhà nước, chủ động hợp tác với các tổ chức quốc tế và các đối tác để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm trong việc chuyển đổi số và quản lý số, thu hút các nhà đầu tư quốc tế, các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ tham gia đầu tư vào thị trường Việt Nam.
Trong đó Thủ tướng Chính phủ đã ban Quyết định số 884/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án hỗ trợ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ chương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030.
Lan toả chuyển đổi số mạng lại những kết quả
Trong thời đại công nghệ số hóa hiện nay chuyển đổi số trong cơ quan Nhà nước đang là vấn đế trọng yếu. Chuyển đổi số được coi là một yếu tố quan trọng để tăng cường hiệu suất và tiện ích của các dịch vụ công. Từ việc cung cấp dịch vụ trực tuyến cho đến quản lý dữ liệu và tự động hóa quy trình, chuyển đổi số đã và đang thay đổi cách thức hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Đến nay, mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước đã kết nối 4 cấp hành chính tiếp tục được phát triển, tạo hạ tầng truyền dẫn ổn định, an toàn kết nối các hệ thống thông tin phục vụ chính phủ số.
Theo đó số bộ, ngành, địa phương đã triển khai trung tâm dữ liệu phục vụ chuyển đổi số theo hướng sử dụng công nghệ điện toán đám mây đạt 71,43%. Đồng thời, có 9 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, 43 trung tâm dữ liệu trên toàn quốc với tổng số 571.000 máy chủ, 54,7 triệu lõi vật lý.
Được biết Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành chương trình phát triển, thúc đẩy sử dụng các nền tảng số quốc gia gồm 38 nền tảng (8 nền tảng chính phủ số; 12 nền tảng kinh tế số; 11 nền tảng xã hội số và 7 nền tảng đa mục tiêu), mỗi nền tảng số do một bộ, ngành chủ trì. Đến nay đã đánh giá, công bố 8 nền tảng số quốc gia với tổng lượng người dùng thường xuyên khoảng 150 triệu người dùng/tháng.
Về cơ sở dữ liệu quốc gia đã được triển khai và có những kết quả nhất định như: Cơ sở dữ liệu về dân cư đã lưu thông tin của khoảng 99 triệu nhân khẩu, đạt trên 99% dân số Việt Nam; kết nối với 15 bộ, ngành; 63/63 địa phương; 4 doanh nghiệp.
Cơ sở dữ liệu về đăng ký doanh nghiệp, đã kết nối được với 13 bộ, ngành và 63/63 địa phương với khoảng 41 triệu giao dịch; lưu trữ dữ liệu của hơn 1,6 triệu doanh nghiệp và hơn 200.000 đơn vị trực thuộc doanh nghiệp; lưu trữ thông tin đăng ký của khoảng 2,4 triệu hộ kinh doanh.
Cơ sở dữ liệu về bảo hiểm, đã kết nối, chia sẻ dữ liệu với 9 bộ, ngành và quản lý khoảng 32 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm, xác thực hơn 93,7 triệu thông tin nhân khẩu trong cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, trong đó khoảng 84,7 triệu người đang tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chiếm 96% tổng số người tham gia. Đồng thời, hệ thống hiểm xã hội Việt Nam đã đồng bộ hơn 132 triệu lượt bản ghi thông tin hiểm xã hội, bảo hiểm y tế với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Cơ sở dữ liệu về hộ tịch điện tử đã hoàn thành triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với hơn 50.000 người dùng.
Cơ sở dữ liệu về đất đai, đã xây dựng và đưa vào quản lý, vận hành và khai thác sử dụng được 4 khối dữ liệu đất đai do trung ương quản lý, bao gồm: Cơ sở dữ liệu về thống kê, kiểm kê đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá đất, điều tra và đánh giá đất đai.
Cơ sở dữ liệu về tài chính, Bộ Tài chính đã xây dựng và hoàn thiện 13 cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính.
Cơ sở dữ liệu về cán bộ, công chức, viên chức đã kết nối đồng bộ dữ liệu với 96 bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương, trong đó 70 bộ, ngành, địa phương đã đồng bộ dữ liệu (đạt 100%) và các đơn vị còn lại đang tiếp tục đồng bộ dữ liệu về bảo đảm đủ số liệu của giai đoạn 1.
Hiện nay công tác chuyển đổi số bước đầu đã đạt được một số thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, tạo nền móng vững chắc cho công cuộc chuyển dịch của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân lên không gian số, thúc đẩy và phát triển chính phủ số xã hội số và kinh tế số. Tuy nhiên, cũng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, như một số bộ, ngành chưa hoàn thành việc rà soát cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính về quản lý dân cư; việc chia sẻ dữ liệu của các cơ quan Nhà nước chưa phát huy hết hiệu quả; công tác an toàn, an ninh mạng nhiều nơi còn chưa được bảo đảm; kinh tế số vẫn còn hạn chế và kết nối giữa các nền tảng chưa đáp ứng yêu cầu xã hội.
Có thể khẳng định trong tương lai không xa nữa chuyển đổi số các cơ quan nhà nước sẽ tiếp tục đạt được những kết quả đột phá; Góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, minh bạch, hiệu quả, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân và doanh nghiệp; Thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số./.