Vì vậy, Trung tâm Nhà báo Quốc tế (ICFJ) và Trung tâm Báo chí Kỹ thuật số Tow thuộc Đại học Columbia đã công bố những phát hiện sơ bộ về cuộc khảo sát của họ, trong đó đề cập đến những tác động của đại dịch COVID-19 đối với các nhà báo và tòa soạn. Cuộc khảo sát đã nhận được 1.406 phản hồi từ những người được hỏi ở 125 quốc gia.
Dưới đây là những kết luận và con số chính được rút ra từ nghiên cứu:
Ảnh hưởng của COVID-19 đến sức khỏe tinh thần và thể chất nhà báo
Th o kết quả khảo sát, 70% số người được hỏi cho biết đại dịch khiến họ phải chịu những tác động tiêu cực đến tâm lý và tình cảm. Năm phản ứng tiêu cực hàng đầu ảnh hưởng đến ít nhất một phần ba số người được hỏi bao gồm lo lắng, kiệt sức, khó ngủ, cảm giác bất lực, và những suy nghĩ tiêu cực, đen tối.
Giáo sư Emily Bell, Giám đốc Trung tâm Báo chí Kỹ thuật số Tow cho biết: "Chúng tôi rất ngạc nhiên khi nhiều phóng viên cho biết phải chịu các tác động tâm lý và cảm xúc do khủng hoảng COVID-19. Trong khi đó, Tiến sĩ Posetti, Giám đốc nghiên cứu toàn cầu của ICFJ, cho biết: để nhấn mạnh những gì được gọi là một cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần trong báo chí, đã có một số nghiên cứu khác với các mẫu nhỏ hơn. Ngoài ra, 82% số người được hỏi đã mô tả ít nhất một phản ứng tâm lý tiêu cực do COVID-19.
Sự căng thẳng mà các nhà báo phải chịu đựng là do thực tế một số tòa soạn báo không hỗ trợ phóng viên đầy đủ, không chỉ trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần. Ở cấp độ cơ bản nhất - là cung cấp thiết bị an toàn để bảo vệ phóng viên tiền tuyến khỏi lây nhiễm COVID-19. Người sử dụng lao động dường như đã thất bại khi không hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc phóng viên. 30% những người trả lời cho biết các tổ chức tin tức của họ không cung cấp các phóng viên hiện trường phần thiết bị bảo vệ khuyến nghị.
COVID-19 tác động thế nào đến sự tự do báo chí?
Theo báo cáo khảo sát sơ bộ, 20% số người được hỏi cho biết họ bị quấy rối nhiều hơn trong thời gian diễn ra đại dịch. 14% cho biết họ bị kiểm duyệt chặt chẽ hơn, và 14% nữa báo cáo trải qua các áp lực chính trị trong việc đưa thông tin tích cực về chính phủ và các quan chức được bầu.
"Có rất nhiều trường hợp đã được xác định về việc một số quốc gia đặc biệt trên thế giới đã sử dụng COVID-19 như một chiếc áo choàng để mở rộng nỗ lực hiện diện của họ nhằm trấn áp báo chí độc lập phê phán hoặc chỉ trích, hoặc để tạo ra những tác động mới", Tiến sĩ Posetti cho biết.
Các nhà báo đã tiết lộ về vấn nạn thất nghiệp do đại dịch gây ra, về việc bị cắt giảm lương và cửa hàng tòa soạn khi các tổ chức tin tức sụt giảm doanh thu lớn trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng. Trên hết, họ đang phải chịu đựng các cuộc tấn công ngày càng tăng - cả online và offline - khi các chính phủ và những kẻ chống đối khác cố gắng làm mất uy tín của các nhà báo và khôi phục quyền tự do báo chí dưới lớp "áo choàng của đại dịch".
Phát hiện bất ngờ về truyền bá thông tin sai lệch trong đại dịch COVID-19
Đáng chú ý, những người được hỏi xác định các chính trị gia, quan chức được bầu, chính phủ đại diện và các mạng do Nhà nước điều phối là nguồn cung cấp thông tin sai lệch liên quan đến COVID-19 hàng đầu. Họ cũng chỉ ra Facebook là công cụ hỗ trợ nhiều nhất gây thông tin sai lệch và gây hiểu lầm trong hệ sinh thái truyền thông xã hội.
Cụ thể, theo các nhà báo được hỏi, một nguồn phát tán thông tin sai lệch lớn đến từ chính các nhà lãnh đạo chính trị và các quan chức được bầu chọn (46%) và những kẻ thích tìm kiếm sự chú ý (43%). 80% người được hỏi cho biết họ đọc phải thông tin sai lệch ít nhất một lần một tuần, và phần lớn là trên Facebook (66%), Twitter (27%) và WhatsApp (35%). Giáo sư Bell chỉ ra rằng khi kết hợp tất cả các nguồn thông tin sai lệch liên quan đến chính phủ, bao gồm các nhà lãnh đạo chính trị, cơ quan chính phủ và mạng lưới truyền tin của chính phủ, thì vai trò của chính phủ trong việc truyền bá thông tin sai lệch "rất cao".
Đặc biệt, khi thảo luận về các chiến thuật phát tán sai lệch thông tin, Ray Rosen, nhà phê bình truyền thông và là giáo sư tại Đại học New York, đã mô tả một chiến thuật được những người phát tán thông tin sai lệch sử dụng trên phương tiện truyền thông xã hội, trong đó mục đích là khiến các kênh truyền thông tràn ngập lý thuyết và những thông tin sai lệch, thường là thông tin mâu thuẫn, nhằm mục đích tạo ra tranh cãi và mất lòng tin.
Maria Ressa, biên tập cao cấp, cũng thảo luận về một chiến thuật mà cô gọi là "thao túng ngấm ngầm", đặc biệt là thông qua ảnh hưởng của nước ngoài. Trong trường hợp này, một phần thông tin đã được truyền qua các phương tiện khác nhau đến mức mọi người không còn biết nguồn gốc của thông tin đến từ đâu và độc giả không nhận ra họ đang bị thao túng.
Ressa tin rằng các báo chí nên tìm ra và áp dụng giải pháp chống lan truyền thông tin sai lệch, như làm việc với các nền tảng, trở thành người kiểm tra thực tế, xây dựng công nghệ kiểm chứng riêng, tìm ra một mô hình kinh doanh mới cho báo chí và xây dựng một cộng đồng bền vững.
Cả Ressa và Rosen đều kêu gọi thành lập một ban giám sát hợp pháp đối với Facebook. Rosen cho biết: "Facebook có tất cả các loại vấn đề, nhưng đó là một trong số ít những thứ mà bạn có thể tưởng tượng được sức mạnh của nền tảng này. Bạn không thể loại bỏ nó dù quan điểm tư tưởng của bạn là gì hay bạn có thể nghĩ ra bao nhiêu kịch bản. Quản lý phải là một phần của bức tranh".
Tác động kinh tế đối với các tòa soạn báo
Cuộc khảo sát cho thấy 17% các tòa soạn bị sụt giảm doanh thu hơn 75% trong thời gian COVID-19. 43% cho biết doanh thu của tòa soạn giảm mất một nửa. 89% tòa soạn báo trên thế giới cho biết họ đã thực thi ít nhất một biện pháp liên quan đến COVID-19 như cắt giảm nhân sự, giảm lương, đóng cửa báo, trang tin, chuyên mục. Có 7% cho biết tòa soạn báo đã dừng các ấn phẩm báo in và 11% giảm lượng phát hành báo in do tác động của COVID-19 lên ngân sách của tòa soạn.
Giáo sư Bell nói: "Tôi nghĩ những gì chúng ta đang thấy ở đây chính là sự sụp đổ của thị trường quảng cáo".
Trong khi đó, Ressa cho rằng thế giới mà chúng ta từng biết đã bị hủy diệt và chúng ta phải tái tạo nó. Các tòa soạn báo phải hình dung lại mô hình kinh doanh của họ trước đây.
"Chúng tôi buộc phải tìm ra một mô hình kinh doanh khác dựa trên dữ liệu và công nghệ", Ressa nói. "Những điều kiện giống nhau sẽ tạo ra một giải pháp sáng tạo và đó là điều đã xảy ra với chúng tôi. Mô hình kinh doanh sử dụng dữ liệu và công nghệ đó đã tăng 12.000% và khi quảng cáo thu hẹp lại, chúng tôi đã tìm thấy một mô hình kinh doanh mới không chỉ dựa trên nghiên cứu mà còn có thể thay thế mô hình đang sụp đổ này ".
Rosen lưu ý rằng các chuyên gia của các ngành công nghiệp khác nhau dựa trên những thực tế khác nhau có thể nhận ra rằng họ phải phụ thuộc vào nhau và các mối quan hệ mới với công chúng sẽ xuất hiện.
Rosen cũng đề xuất chuyển hướng sang mô hình thành viên thay vì đăng ký để bù đắp doanh thu bị mất. "Với tư cách thành viên, bạn tham gia vì bạn tin tưởng vào công việc và bạn không bận tâm rằng công việc sẽ đến với những người không trả tiền cho nó - trên thực tế, đó là một điểm cộng", ông nói.
Ressa tin rằng tương lai của báo chí gắn liền với tương lai của công nghệ. "Các nhà báo là bộ phận cần thiết trong tương lai công nghệ này, bởi vì họ là những người có kỷ luật. Chúng tôi có các tiêu chuẩn, đạo đức và lòng dũng cảm", cô nói.
Một vài điểm sáng
Tuy nhiên, vẫn có một số điểm sáng. 43% các phóng viên được hỏi cho biết họ nhận thấy niềm tin tưởng của độc giả vào báo chí trong thời gian diễn ra làn sóng COVID-19 đầu tiên. 61% cho biết họ cảm thấy tận tâm với nghề báo hơn so với trước đại dịch. Ngoài ra, có những bằng chứng cho thấy sự tham gia cộng đồng vào lĩnh vực báo chí trong thời gian diễn ra đại dịch. Những phát hiện tương đối lạc quan này có thể là chìa khóa để hình dung lại nền công nghiệp báo chí sau đại dịch, đó là phải định hướng đến công chúng và lấy khán giả làm trung tâm!
(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT số 17+18 tháng 12/2020)